ẤN ĐỘ (INDIA)-TÊN GỌI TỪ MỘT CON SÔNG
I.Nguồn gốc tên gọi:
Ấn Độ có tên gọi đầy đủ là "nước Cộng hoà Ấn Độ", nằm trên bán đảo Ấn Độ của tiểu lục địa Nam Á; tây, đông, nam ba mặt giáp biển. Tên nước có nguồn gốc từ sông Ấn. Ấn Độ nguyên là quốc gia Veda, do vương triều Veda kiến lập thời cổ đại. Người Ấn Độ cổ lấy chữ "Hindu" để chỉ dòng sông, bắt nguồn từ tên sống Indus (sông Ấn), về sau mở rộng chỉ cả tiểu lục địa Nam Á, sau khi Ấn Độ và Pakistan phân thành hai quốc gia khác nhau thì Hindus mới chỉ quốc gia Ấn Độ. Tiếng Ba Tư cổ đem Hindu chuyển thành Indu, nguời cổ Hy Lạp lại biến Indu thành Indi, người La Mã gọi Indus và người Anh ngày nay gọi thành India.
Trong các thư tịch Trung Quốc, thời Hán gọi Ấn Độ là "Thân Độc", "Thiên Trúc", tên gọi Ấn Độ bắt đầu từ trong sách "Đại Đường Tây Vực Ký" của Đường Huyền Trang. Thế kỷ IV TCN, Ấn Độ đã hình thành một quốc gia thống nhất.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, theo sau bọn thống trị Bồ Đào Nha, người Hà Lan, Anh, Pháp lần lượt xâm lược Ấn Độ, thực hiện chính sách áp bức và bóc lột Ấn Độ, lần lượt xây dựng những cứ điểm quân sự ven biển. Năm 1849, Anh chiếm toàn bộ Ấn Độ. Ngày 15/8/1947, theo phương án của người Anh, Ấn Độ và Pakistan bị chia hai, ngày 26/1/1950, nước Cộng hoà Ấn Độ chính thức được thành lập.
II. Quốc kỳ, quốc huy.
Quốc kỳ:
Do ba hình chữ nhật bằng nhau màu cam, trắng và lục nằm ngang song song hợp thành. Chính giữa nền cờ màu trắng có một bánh xe Phật pháp màu xanh lam với 24 chiếc nan hoa. Hình bánh xe này là một trong những đồ án đầu sư tử ở đầu trụ đá Thánh địa Phật giáo đời vua Asoka thuộc vương triều Khổng tước (vương triều Maurya Dynasty) Ấn Độ. Màu cam tượng trưng cho lòng dũng cảm, hiến thân và tinh thần hy sinh thân mình, đồng thời cũng là màu pháp y của giáo đồ Phật giáo; màu trắng tượng trưng cho thuần khiết và chân lý; màu lục biểu thị lòng tin, đại diện cho sức sinh sản mà sự sống nhân loại dựa vào để sinh tồn. Bánh xe Phật pháp là bánh xe linh thiêng của nhân dân Ấn Độ, bánh xe chân lý, bánh xe chuyển động tiến về phía trước, bánh xe quay mãi trời xanh. Đồ án quốc kỳ ra đời năm 1921, khi đó chính giữa nền cờ là một bánh xe quay tượng trưng cho văn minh cần lao của nhân dân Ấn Độ. Ngày 22/7/1947, quyết định đổi bánh xe quay sợi thành bánh xe Phật pháp, chính thức được xem là quốc kỳ Ấn Độ. Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố là nước Cộng hòa và sử dụng quốc kỳ này.
Quốc huy:
Đồ án trung tâm do bốn con sư tử đực đứng châu lưng lại với nhau hợp thành, chúng đứng vững chắc trên một bệ đài hình tròn, mặt hướng ra bốn phía. Sư tử tượng trưng cho lòng tin, uy nghiêm, dũng khí và sức mạnh. Chung quanh bệ đài có bốn con thú canh giữ: hướng tây là con bò, hướng bắc là sư tử, hướng đông là voi, hướng nam là ngựa. Giữa bốn con thú có bánh xe Phật pháp. Quốc huy của Ấn Độ được chế định theo hình tượng điêu khắc đầu sư tử trên đầu trụ đá ở vườn thánh địa Phật giáo đời vua Asoka (324-187 TCN), vương triều Maurya Dynasty nổi tiếng trong lịch sử Ấn Độ. Những cột đá khắc những tín điều thống trị này dùng để kỷ niệm Phật tổ Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên truyền giáo lý đạo Phật khắp thiên hạ. Đồ án quốc huy Ấn Độ đã phản ánh Ấn Độ là một nước có nền văn minh cổ xưa và lịch sử lâu đời.
Myanmar (Miến Điện)-Vùng rừng núi xa xôi
I.Nguồn gốc tên gọi:
Myanmar có tên đầy đủ là "Liên bang Myanmar", nằm ở phía tây bán đảo Trung Nam, có hai cách giải thích về nguồn gốc tên này:
1. Tên gọi của Trung Quốc vào thời nhà Tống. Năm 1160, sứ giả nước này đến thăm Tống, nhà Tống thấy đường xa, núi non cách trở đã gọi nước này là Miến (ý chỉ sự xa xôi), và lại do tên gọi của dải rừng ở giữa biên giới hai nước là Điện, hợp lại thành Miến Điện (ý chỉ vùng rừng núi xa xôi).
2. Bắt nguồn từ tên dân tộc, về sau trở thành tên nước. Dân tộc Myanmar chiếm 2/3 dân số toàn quốc, bản thân người Myanmar cho rằng nguồn gốc tên gọi của họ là kết hợp của Myan thêm vào hậu tố mar biểu thị sự tôn kính. Ở đây có ý "nhanh nhẹn và cường tráng, còn nguồn gốc ngôn ngữ nước này có thể có liên quan đến tiếng Phạn của đạo Bà La Môn, trong Phật giáo từ này ý chỉ những người cư trú đầu tiên ở bản địa.
Ngoài ra, người Myanmar còn gọi nước mình là Bumar (ý chỉ người khoẻ mạnh). Năm 1044, sau khi hình thành quốc gia thống nhất,đã trải qua ba vương triều phong kiến: Pagan, Toungoo và Konbaung. Từ 1824-1885, thực dân Anh qua ba lần chiến tranh xâm lược đã dần chiếm lĩnh Myanmar, khiến Myanmar trở thành thuộc địa của Anh. 5/1942, bị Nhật Bản xâm chiếm, năm 1945 lại bị Anh thống trị. 4/1/1948, tách khỏi liên bang Anh, tuyên bố độc lập, thành lập Liên bang Myanmar. 3/1/1974, đổi thành "nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Liên bang Myanmar". 23/9/1988, đổi tên nước thành "Liên bang Myanmar".
II. Quốc kỳ, quốc huy:
Quốc kỳ:
Hình chữ nhật, nền cờ màu đỏ, góc trên bên trái lá cờ có một hình chữ nhật nhỏ màu lam sậm, trên đó là hình vẽ màu trắng. Hình vẽ trung tâm là hai bông lúa nước, xung quanh bông lúa nước là bánh răng có 14 cái răng, xung quanh bánh răng còn có 14 ngôi sao năm cánh. Bông lúa và bánh răng tượng trưng cho nông nghiệp và công nghiệp, 14 ngôi sao năm cánh tượng trưng cho 14 tỉnh và bang của Liên bang Myanmar. Màu đỏ trên quốc kỳ tượng trưng cho lòng dũng cảm và quyết đoán, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và đức tính tốt đẹp, màu lam sậm tượng trưng cho hòa bình và thống nhất. Quốc kỳ này được công bố trong Hội nghị nhân dân Myanmar lần thứ nhất năm 1974.
Quốc huy:
Hình vẽ trung tâm là một hoa văn hình tròn gồm có bánh răng 14 răng và bản đồ nước Myanmar, bao quanh bởi vòng tròn bằng bông lúa vàng. Bánh răng tượng trưng cho công nghiệp, 14 răng tượng trưng cho 14 tỉnh và bang, bản đồ biểu thị hình dạng biên giới Myanmar, bông lúa tượng trưng Myanmar là đất nước có nền nông nghiệp trồng lúa nucớ là chính. Hai bên hình tròn có hai con thánh sư màu vàng cảnh giác canh gác. Myanmar là một quốc gia tín ngưỡng Phật giáo, trong Phật giáo, thánh sư là biểu tượng của sự tốt lành, còn là hoá thân của thần bảo hộ, tượng trưng cho việc bảo vệ quốc gia, bảo vệ tổ quốc. Trên đỉnh chính giữa quốc huy có một ngôi sao màu vàng năm cánh, tượng trưng cho độc lập của đất nước. Phía dưới quốc huy là một dải trang trí màu vàng, trên đó có dòng chữ "Liên băng Myanmar" bằng tiếng Myanmar. Quốc huy này được chế định đồng thời với quốc kỳ năm 1974. Khi đó dòng chữ trên dải trang trí phía dưới quốc huy là "nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Myanmar". Ngày 23/9/1988, đổi tên thành "Liên bang Myanmar", tên nước trên quốc huy cũng thay đổi theo.
Triều Tiên - đất nước đón ánh Mặt Trời đầu tiên
I.Nguồn gốc tên gọi:
Triều Tiên có tên đầy đủ là "Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên", nằm ở đông bắc đại lục châu Á. Theo sử sách ghi chép, khoảng năm 1122 TCN, tổ chức quốc gia đầu tiên là Triều Tiên cổ được thành lập. Thế kỷ VII TCN, tên Triều Tiên (Choson) từng xuất hiện trong sử sách, nhưng không thấy giải thích cụ thể về tên gọi này. "Sử ký" và "Hán thư" của Trung Quốc chép: "Vũ Vương phong Kija đến Triều Tiên". Sau đó, "Đông quốc dư địa thắng lãm" của Triều Tiên lại chép: "Triều Tiên, nước ở phía Đông, đón nhận những tia nắng Mặt Trời đầu tiên, gọi tên là Triều Tiên". Vương triều Kija và tiếp theo là Vệ thị của Triều Tiên (kiến lập năm 194 TCN) đều sử dụng tên Triều Tiên này.
Khoảng thế kỷ I, trên bán đảo Triều Tiên đã lần lượt xuất hiện ba nhà nước: Koguryo, Paekche, Silla; đến giữa thế kỷ VII, nhà Silla đã thống nhất bán đảo Triều Tiên. Năm 918, Wang Kon tự tuyên bố là Quốc vương, nhà Koguryo đã thay thế nhà Silla, đổi tên nước thành Koryo (Cao Li), mang ý nghĩa chỉ núi sông cao đẹp. Trong lịch sử Triều Tiên, Koryo trở thành tên gọi quốc gia thống nhất tồn tại gần 500 năm.Năm 1392, tướng Yi Songgye đã giành lấy chính quyền, thành lập vương triều mới, lúc đó, vì giữa đế vương hai nước Trung-Triều đang tồn tại quan hệ phong kiến, Yi Songgye đã báo cho Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương về việc đổi quốc hiệu đồng thời đề ra hai phương án để triều đình lựa chọn, thứ nhất là Triều Tiên, thứ hai là Hòa Ninh. Triều Tiên có nghĩa là đất nước đón tia nắng mặt trời đầu tiên (triều nhật tiên minh chi quốc độ). Chu Nguyên Chương đã sử dụng tên gọi Triều Tiên. Từ đó, quốc hiệu Triều Tiên (Korea) đã thay thế quốc hiều Koryo (Cao Li).
Để phân biệt với tên gọi Triều Tiên cũ giống thời xa xưa, sử sách gọi Yi Songgye là triều đại Yi. Chiến tranh Giáp Ngọ giữa Trung Quốc và Nhật Bản nổ ra, nhà Thanh đại bại, đã ký kết "Điều ước Mã Quan", thừa nhận Triều Tiên là nước hoàn toàn độc lập, phế bỏ quan hệ. Triều Tiên phải nộp cống cho triều đình nhà Thanh. 10/1897, Lý Hy đăng cơ xưng đế, cải quốc hiệu thành Đế quốc Đại Hàn, gọi tắt là Đại Hàn hoặc Hàn Quốc, nhưng chỉ sử dụng trong thời gian rất ngắn.
8/1910, Triều Tiên thành thuộc địa của Nhật Bản. Từ năm 1910 đến giữa tháng 8/1945, hai cách gọi Triều Tiên và Hàn Quốc bị sử dụng lẫn lộn, và không có hàm nghĩa chính trị đặc biệt nào. Tháng 8/1945, miền Bắc độc lập, ngày 9 tháng 9 năm 1948, hội nghị nhân dân tối cao đầu tiên của Triều Tiên thông qua Hiến pháp đã tuyên bố thành lập nước "Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên".
II. Quốc kỳ, quốc huy:
1. Quốc kỳ:
Hình chữ nhật, tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng là 2:1. Giữa nền cờ là một mặt rộng màu đỏ, trên dưới là hai dải hẹp màu lam, giữa hai màu lam và màu đỏ được cách bởi một viền trắng nhỏ, lệch về phía bên cán cờ, trên nền đỏ, có một nền tròn màu trắng, giữa nền tròn là một ngôi sao đỏ năm cánh. Sao đỏ năm cánh tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hoà kế thừa toàn diện truyền thống cách mạng rực rỡ của cuộc đấu tranh cách mạng kháng Nhật, tượng trưng cho nhân dân Triều Tiên đi theo tư tưởng cách mạng của chủ tịch Kim Nhật Thành (Kim Il Sung), phấn đấu tiến lên vì sự thống nhất độc lập của Tổ quốc và vì sự thắng lợi của CNXH và CN Cộng sản. Mặt rộng màu đỏ tượng trưng cho cuộc đấu tranh đẫm máu và tinh thần yêu nước cao cả của các chiến sĩ trong công cuộc giải phóng Tổ quốc và vì tự do của nhân dân, nó còn tượng trưng cho cuộc đấu tranh ngoan cường của nhân dân Triều Tiên vì thống nhất độc lập Tổ quốc và thắng lợi của CNXH và CNCS. Nền tròn màu trắng và hai đường trắng nhỏ tượng trưng Triều Tiên là một dân tộc đơn nhất. Màu lam tượng trưng cho chí hướng nhiệt thành của nhân dân Triều Tiên đoàn kết các nước XHCN và nhân dân toàn thế giới phấn đấu đến cùng cho nền hoà bình lâu dài của nhân loại. Quốc kỳ được chế định năm 1948.
2.Quốc huy:
Hình bầu dục, ở trung tâm có một con đập lớn và một trạm phát điện, thác nước và cột điện cao áp. Phía trên hình trung tâm có một ngôi sao đỏ năm cánh chiếu sáng. Xung quanh hình trung tâm được bao bọc bởi các bông lúa buộc bằng một dải lụa đỏ, trên dải lụa đỏ có dòng chữ vàng bằng tiếng Triều Tiên: "Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên". Ngôi sao năm cánh trên quốc huy tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hoà kế thừa toàn diện truyền thống cácg mạng rực rỡm đồng thời tượng trưng cho tinh thần một lòng trung thành đi theo tư tưởng cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành, dũng mãnh tiến lên vì độc lập thống nhất tổ quốc và CNXH. Trạm thuỷ điện tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại lấy công nghiệp nặng và giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân làm nền tảng. Bông lúa tượng trưng cho nông nghiệp và nông dân, đồng minh của giai cấp công nhân. Dải lụa màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh vĩnh hằng bất khuất của nhân dân đoàn kết xung quanh lãnh tụ, đi theo tư tưởng và ý chí cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành. Quốc huy được chế định năm 1948.
I.Nguồn gốc tên gọi:
Ấn Độ có tên gọi đầy đủ là "nước Cộng hoà Ấn Độ", nằm trên bán đảo Ấn Độ của tiểu lục địa Nam Á; tây, đông, nam ba mặt giáp biển. Tên nước có nguồn gốc từ sông Ấn. Ấn Độ nguyên là quốc gia Veda, do vương triều Veda kiến lập thời cổ đại. Người Ấn Độ cổ lấy chữ "Hindu" để chỉ dòng sông, bắt nguồn từ tên sống Indus (sông Ấn), về sau mở rộng chỉ cả tiểu lục địa Nam Á, sau khi Ấn Độ và Pakistan phân thành hai quốc gia khác nhau thì Hindus mới chỉ quốc gia Ấn Độ. Tiếng Ba Tư cổ đem Hindu chuyển thành Indu, nguời cổ Hy Lạp lại biến Indu thành Indi, người La Mã gọi Indus và người Anh ngày nay gọi thành India.
Trong các thư tịch Trung Quốc, thời Hán gọi Ấn Độ là "Thân Độc", "Thiên Trúc", tên gọi Ấn Độ bắt đầu từ trong sách "Đại Đường Tây Vực Ký" của Đường Huyền Trang. Thế kỷ IV TCN, Ấn Độ đã hình thành một quốc gia thống nhất.
Bắt đầu từ thế kỷ XVI, theo sau bọn thống trị Bồ Đào Nha, người Hà Lan, Anh, Pháp lần lượt xâm lược Ấn Độ, thực hiện chính sách áp bức và bóc lột Ấn Độ, lần lượt xây dựng những cứ điểm quân sự ven biển. Năm 1849, Anh chiếm toàn bộ Ấn Độ. Ngày 15/8/1947, theo phương án của người Anh, Ấn Độ và Pakistan bị chia hai, ngày 26/1/1950, nước Cộng hoà Ấn Độ chính thức được thành lập.
II. Quốc kỳ, quốc huy.
Quốc kỳ:
Do ba hình chữ nhật bằng nhau màu cam, trắng và lục nằm ngang song song hợp thành. Chính giữa nền cờ màu trắng có một bánh xe Phật pháp màu xanh lam với 24 chiếc nan hoa. Hình bánh xe này là một trong những đồ án đầu sư tử ở đầu trụ đá Thánh địa Phật giáo đời vua Asoka thuộc vương triều Khổng tước (vương triều Maurya Dynasty) Ấn Độ. Màu cam tượng trưng cho lòng dũng cảm, hiến thân và tinh thần hy sinh thân mình, đồng thời cũng là màu pháp y của giáo đồ Phật giáo; màu trắng tượng trưng cho thuần khiết và chân lý; màu lục biểu thị lòng tin, đại diện cho sức sinh sản mà sự sống nhân loại dựa vào để sinh tồn. Bánh xe Phật pháp là bánh xe linh thiêng của nhân dân Ấn Độ, bánh xe chân lý, bánh xe chuyển động tiến về phía trước, bánh xe quay mãi trời xanh. Đồ án quốc kỳ ra đời năm 1921, khi đó chính giữa nền cờ là một bánh xe quay tượng trưng cho văn minh cần lao của nhân dân Ấn Độ. Ngày 22/7/1947, quyết định đổi bánh xe quay sợi thành bánh xe Phật pháp, chính thức được xem là quốc kỳ Ấn Độ. Ngày 26/1/1950, Ấn Độ tuyên bố là nước Cộng hòa và sử dụng quốc kỳ này.
Quốc huy:
Đồ án trung tâm do bốn con sư tử đực đứng châu lưng lại với nhau hợp thành, chúng đứng vững chắc trên một bệ đài hình tròn, mặt hướng ra bốn phía. Sư tử tượng trưng cho lòng tin, uy nghiêm, dũng khí và sức mạnh. Chung quanh bệ đài có bốn con thú canh giữ: hướng tây là con bò, hướng bắc là sư tử, hướng đông là voi, hướng nam là ngựa. Giữa bốn con thú có bánh xe Phật pháp. Quốc huy của Ấn Độ được chế định theo hình tượng điêu khắc đầu sư tử trên đầu trụ đá ở vườn thánh địa Phật giáo đời vua Asoka (324-187 TCN), vương triều Maurya Dynasty nổi tiếng trong lịch sử Ấn Độ. Những cột đá khắc những tín điều thống trị này dùng để kỷ niệm Phật tổ Thích Ca Mâu Ni lần đầu tiên truyền giáo lý đạo Phật khắp thiên hạ. Đồ án quốc huy Ấn Độ đã phản ánh Ấn Độ là một nước có nền văn minh cổ xưa và lịch sử lâu đời.
Myanmar (Miến Điện)-Vùng rừng núi xa xôi
I.Nguồn gốc tên gọi:
Myanmar có tên đầy đủ là "Liên bang Myanmar", nằm ở phía tây bán đảo Trung Nam, có hai cách giải thích về nguồn gốc tên này:
1. Tên gọi của Trung Quốc vào thời nhà Tống. Năm 1160, sứ giả nước này đến thăm Tống, nhà Tống thấy đường xa, núi non cách trở đã gọi nước này là Miến (ý chỉ sự xa xôi), và lại do tên gọi của dải rừng ở giữa biên giới hai nước là Điện, hợp lại thành Miến Điện (ý chỉ vùng rừng núi xa xôi).
2. Bắt nguồn từ tên dân tộc, về sau trở thành tên nước. Dân tộc Myanmar chiếm 2/3 dân số toàn quốc, bản thân người Myanmar cho rằng nguồn gốc tên gọi của họ là kết hợp của Myan thêm vào hậu tố mar biểu thị sự tôn kính. Ở đây có ý "nhanh nhẹn và cường tráng, còn nguồn gốc ngôn ngữ nước này có thể có liên quan đến tiếng Phạn của đạo Bà La Môn, trong Phật giáo từ này ý chỉ những người cư trú đầu tiên ở bản địa.
Ngoài ra, người Myanmar còn gọi nước mình là Bumar (ý chỉ người khoẻ mạnh). Năm 1044, sau khi hình thành quốc gia thống nhất,đã trải qua ba vương triều phong kiến: Pagan, Toungoo và Konbaung. Từ 1824-1885, thực dân Anh qua ba lần chiến tranh xâm lược đã dần chiếm lĩnh Myanmar, khiến Myanmar trở thành thuộc địa của Anh. 5/1942, bị Nhật Bản xâm chiếm, năm 1945 lại bị Anh thống trị. 4/1/1948, tách khỏi liên bang Anh, tuyên bố độc lập, thành lập Liên bang Myanmar. 3/1/1974, đổi thành "nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Liên bang Myanmar". 23/9/1988, đổi tên nước thành "Liên bang Myanmar".
II. Quốc kỳ, quốc huy:
Quốc kỳ:
Hình chữ nhật, nền cờ màu đỏ, góc trên bên trái lá cờ có một hình chữ nhật nhỏ màu lam sậm, trên đó là hình vẽ màu trắng. Hình vẽ trung tâm là hai bông lúa nước, xung quanh bông lúa nước là bánh răng có 14 cái răng, xung quanh bánh răng còn có 14 ngôi sao năm cánh. Bông lúa và bánh răng tượng trưng cho nông nghiệp và công nghiệp, 14 ngôi sao năm cánh tượng trưng cho 14 tỉnh và bang của Liên bang Myanmar. Màu đỏ trên quốc kỳ tượng trưng cho lòng dũng cảm và quyết đoán, màu trắng tượng trưng cho sự thuần khiết và đức tính tốt đẹp, màu lam sậm tượng trưng cho hòa bình và thống nhất. Quốc kỳ này được công bố trong Hội nghị nhân dân Myanmar lần thứ nhất năm 1974.
Quốc huy:
Hình vẽ trung tâm là một hoa văn hình tròn gồm có bánh răng 14 răng và bản đồ nước Myanmar, bao quanh bởi vòng tròn bằng bông lúa vàng. Bánh răng tượng trưng cho công nghiệp, 14 răng tượng trưng cho 14 tỉnh và bang, bản đồ biểu thị hình dạng biên giới Myanmar, bông lúa tượng trưng Myanmar là đất nước có nền nông nghiệp trồng lúa nucớ là chính. Hai bên hình tròn có hai con thánh sư màu vàng cảnh giác canh gác. Myanmar là một quốc gia tín ngưỡng Phật giáo, trong Phật giáo, thánh sư là biểu tượng của sự tốt lành, còn là hoá thân của thần bảo hộ, tượng trưng cho việc bảo vệ quốc gia, bảo vệ tổ quốc. Trên đỉnh chính giữa quốc huy có một ngôi sao màu vàng năm cánh, tượng trưng cho độc lập của đất nước. Phía dưới quốc huy là một dải trang trí màu vàng, trên đó có dòng chữ "Liên băng Myanmar" bằng tiếng Myanmar. Quốc huy này được chế định đồng thời với quốc kỳ năm 1974. Khi đó dòng chữ trên dải trang trí phía dưới quốc huy là "nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa liên bang Myanmar". Ngày 23/9/1988, đổi tên thành "Liên bang Myanmar", tên nước trên quốc huy cũng thay đổi theo.
Triều Tiên - đất nước đón ánh Mặt Trời đầu tiên
I.Nguồn gốc tên gọi:
Triều Tiên có tên đầy đủ là "Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên", nằm ở đông bắc đại lục châu Á. Theo sử sách ghi chép, khoảng năm 1122 TCN, tổ chức quốc gia đầu tiên là Triều Tiên cổ được thành lập. Thế kỷ VII TCN, tên Triều Tiên (Choson) từng xuất hiện trong sử sách, nhưng không thấy giải thích cụ thể về tên gọi này. "Sử ký" và "Hán thư" của Trung Quốc chép: "Vũ Vương phong Kija đến Triều Tiên". Sau đó, "Đông quốc dư địa thắng lãm" của Triều Tiên lại chép: "Triều Tiên, nước ở phía Đông, đón nhận những tia nắng Mặt Trời đầu tiên, gọi tên là Triều Tiên". Vương triều Kija và tiếp theo là Vệ thị của Triều Tiên (kiến lập năm 194 TCN) đều sử dụng tên Triều Tiên này.
Khoảng thế kỷ I, trên bán đảo Triều Tiên đã lần lượt xuất hiện ba nhà nước: Koguryo, Paekche, Silla; đến giữa thế kỷ VII, nhà Silla đã thống nhất bán đảo Triều Tiên. Năm 918, Wang Kon tự tuyên bố là Quốc vương, nhà Koguryo đã thay thế nhà Silla, đổi tên nước thành Koryo (Cao Li), mang ý nghĩa chỉ núi sông cao đẹp. Trong lịch sử Triều Tiên, Koryo trở thành tên gọi quốc gia thống nhất tồn tại gần 500 năm.Năm 1392, tướng Yi Songgye đã giành lấy chính quyền, thành lập vương triều mới, lúc đó, vì giữa đế vương hai nước Trung-Triều đang tồn tại quan hệ phong kiến, Yi Songgye đã báo cho Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương về việc đổi quốc hiệu đồng thời đề ra hai phương án để triều đình lựa chọn, thứ nhất là Triều Tiên, thứ hai là Hòa Ninh. Triều Tiên có nghĩa là đất nước đón tia nắng mặt trời đầu tiên (triều nhật tiên minh chi quốc độ). Chu Nguyên Chương đã sử dụng tên gọi Triều Tiên. Từ đó, quốc hiệu Triều Tiên (Korea) đã thay thế quốc hiều Koryo (Cao Li).
Để phân biệt với tên gọi Triều Tiên cũ giống thời xa xưa, sử sách gọi Yi Songgye là triều đại Yi. Chiến tranh Giáp Ngọ giữa Trung Quốc và Nhật Bản nổ ra, nhà Thanh đại bại, đã ký kết "Điều ước Mã Quan", thừa nhận Triều Tiên là nước hoàn toàn độc lập, phế bỏ quan hệ. Triều Tiên phải nộp cống cho triều đình nhà Thanh. 10/1897, Lý Hy đăng cơ xưng đế, cải quốc hiệu thành Đế quốc Đại Hàn, gọi tắt là Đại Hàn hoặc Hàn Quốc, nhưng chỉ sử dụng trong thời gian rất ngắn.
8/1910, Triều Tiên thành thuộc địa của Nhật Bản. Từ năm 1910 đến giữa tháng 8/1945, hai cách gọi Triều Tiên và Hàn Quốc bị sử dụng lẫn lộn, và không có hàm nghĩa chính trị đặc biệt nào. Tháng 8/1945, miền Bắc độc lập, ngày 9 tháng 9 năm 1948, hội nghị nhân dân tối cao đầu tiên của Triều Tiên thông qua Hiến pháp đã tuyên bố thành lập nước "Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên".
II. Quốc kỳ, quốc huy:
1. Quốc kỳ:
Hình chữ nhật, tỉ lệ giữa chiều dài và chiều rộng là 2:1. Giữa nền cờ là một mặt rộng màu đỏ, trên dưới là hai dải hẹp màu lam, giữa hai màu lam và màu đỏ được cách bởi một viền trắng nhỏ, lệch về phía bên cán cờ, trên nền đỏ, có một nền tròn màu trắng, giữa nền tròn là một ngôi sao đỏ năm cánh. Sao đỏ năm cánh tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hoà kế thừa toàn diện truyền thống cách mạng rực rỡ của cuộc đấu tranh cách mạng kháng Nhật, tượng trưng cho nhân dân Triều Tiên đi theo tư tưởng cách mạng của chủ tịch Kim Nhật Thành (Kim Il Sung), phấn đấu tiến lên vì sự thống nhất độc lập của Tổ quốc và vì sự thắng lợi của CNXH và CN Cộng sản. Mặt rộng màu đỏ tượng trưng cho cuộc đấu tranh đẫm máu và tinh thần yêu nước cao cả của các chiến sĩ trong công cuộc giải phóng Tổ quốc và vì tự do của nhân dân, nó còn tượng trưng cho cuộc đấu tranh ngoan cường của nhân dân Triều Tiên vì thống nhất độc lập Tổ quốc và thắng lợi của CNXH và CNCS. Nền tròn màu trắng và hai đường trắng nhỏ tượng trưng Triều Tiên là một dân tộc đơn nhất. Màu lam tượng trưng cho chí hướng nhiệt thành của nhân dân Triều Tiên đoàn kết các nước XHCN và nhân dân toàn thế giới phấn đấu đến cùng cho nền hoà bình lâu dài của nhân loại. Quốc kỳ được chế định năm 1948.
2.Quốc huy:
Hình bầu dục, ở trung tâm có một con đập lớn và một trạm phát điện, thác nước và cột điện cao áp. Phía trên hình trung tâm có một ngôi sao đỏ năm cánh chiếu sáng. Xung quanh hình trung tâm được bao bọc bởi các bông lúa buộc bằng một dải lụa đỏ, trên dải lụa đỏ có dòng chữ vàng bằng tiếng Triều Tiên: "Nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên". Ngôi sao năm cánh trên quốc huy tượng trưng cho chính quyền nước Cộng hoà kế thừa toàn diện truyền thống cácg mạng rực rỡm đồng thời tượng trưng cho tinh thần một lòng trung thành đi theo tư tưởng cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành, dũng mãnh tiến lên vì độc lập thống nhất tổ quốc và CNXH. Trạm thuỷ điện tượng trưng cho nền công nghiệp hiện đại lấy công nghiệp nặng và giai cấp lãnh đạo cách mạng - giai cấp công nhân làm nền tảng. Bông lúa tượng trưng cho nông nghiệp và nông dân, đồng minh của giai cấp công nhân. Dải lụa màu đỏ tượng trưng cho sức mạnh vĩnh hằng bất khuất của nhân dân đoàn kết xung quanh lãnh tụ, đi theo tư tưởng và ý chí cách mạng vĩ đại của chủ tịch Kim Nhật Thành. Quốc huy được chế định năm 1948.