Khi nào sản phẩm nghệ thuật được công nghiệp hóa, thương mại hóa, khi nào công chúng trực tiếp bỏ tiền “nuôi sống” nghệ sĩ, thì khi ấy mới có nghệ thuật chân chính, nghệ sĩ chân chính.
Hiền Hồ vừa tái xuất sau 6 tháng im hơi lặng tiếng vì bê bối đời tư. Trên mạng xã hội, nhiều khán giả chỉ trích nữ ca sĩ, nhưng có một bình luận như thế này: “Giờ không thích thì cũng chỉ tẩy chay trên mạng, dislike MV, chứ sao mà ngăn cản được”.
Trường hợp của giọng ca “Gặp nhưng không ở lại” tương tự với lần trở lại của Jack, sau thời gian anh vướng scandal tình ái hồi tháng 8 năm ngoái. Nam ca sĩ vẫn tham gia chương trình truyền hình thực tế, tung MV mới bất chấp dư luận.
Mặc dù bị tẩy chay trên mạng xã hội, song nhìn chung, những nghệ sĩ như Jack, Hiền Hồ hầu như sẽ tiếp tục trở lại hoạt động nghệ thuật sau scandal.
Đến đây, nhiều người so sánh showbiz Việt với showbiz Trung, Hàn để thấy sự khác biệt.
Tài tử Trung Quốc Lý Dịch Phong bị tẩy chay, cấm sóng vì scandal.
Trường hợp mới nhất là việc tài tử Lý Dịch Phong bị bắt giữ điều tra vì hành vi mua dâm. Trong vòng 1 ngày, hàng loạt nhãn hàng tuyên bố dừng hợp tác, âm thầm xóa thông tin/ hình ảnh liên quan đến anh này.
Đài truyền hình cắt sóng, nền tảng phim ảnh xóa tên Lý Dịch Phong khỏi những bộ phim từng đóng, các giải thưởng Hoa Đỉnh, Kim Ngưu… cũng bị xóa sổ trên hệ thống. Khán giả quay lưng, gọi anh là “nỗi ô nhục của giới giải trí”.
Hay ở Hàn Quốc, thành - bại của các nhóm nhạc Kpop chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của fandom (cộng đồng người hâm mộ). Danh tiếng toàn cầu BTS, Blackpink có được phần lớn nhờ vào fandom tích cực, tận tâm.
Ngược lại, như trường hợp của T-ARA năm 2012. Khi đang ở đỉnh cao, chỉ vì tranh cãi bắt nạt thành viên Hwayoung, nhóm bị tẩy chay khủng khiếp đến mức không thể cứu vãn… để thấy, “quyền lực” của fan Kpop lớn như thế nào.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc những nghệ sĩ vướng scandal như showbiz Trung mới có tính răn đe.
Song, mặt khác, chính khán giả Việt cũng cần tự tạo cho mình thứ “quyền lực” đủ mạnh, thì mới có thể nâng cao sức ảnh hưởng đối với nghệ sĩ.
Khán giả cần “trả giá”
Từng có cuộc tranh luận về việc “Khán giả và nghệ sĩ, ai nuôi ai?”. Nghệ sĩ và công chúng luôn có mối liên hệ qua lại, điều này không thể phủ nhận.
Nhưng nhìn vào thực tế, nếu so sánh giới giải trí Việt với những nền công nghiệp giải trí lớn như Hàn, Trung có thể thấy, khán giả Việt chưa “trực tiếp nuôi sống” nghệ sĩ. Nói một cách dễ hiểu hơn là khán giả Việt chưa chịu bỏ tiền ra ủng hộ sản phẩm nghệ thuật.
Ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc kiếm tiền nhiều nhất từ bán album vật lý (đĩa CD), bán vé các buổi hòa nhạc (concert), mua nhạc trên các nền tảng trả phí. Dựa vào số liệu này sẽ cho thấy độ nổi tiếng của nghệ sĩ, từ đó nhãn hàng mới lựa chọn nghệ sĩ làm gương mặt đại diện, ký hợp đồng quảng cáo.
“Quyền lực” của fan cũng buộc nghệ sĩ phải hoạt động chăm chỉ, tạo ra sản phẩm chất lượng để được ủng hộ, kiếm tiền từ “nghề nghệ thuật”.
Nghệ sĩ sợ bị quay lưng nên luôn cố gắng giữ hình ảnh, đạo đức tốt và "chiều chuộng", tôn trọng người hâm mộ.
Nhưng ngược lại, ở Việt Nam, sản phẩm nghệ thuật chưa được “công nghiệp hóa” như món hàng có giá trị.
Khán giả chủ yếu nghe nhạc trên nền tảng miễn phí, không chi tiền mua đĩa CD (vì vậy nghệ sĩ cùng “lười” sản xuất), ít concert được tổ chức vì khán giả ít khi bỏ tiền mua vé.
Nhãn hàng ký hợp đồng quảng cáo với nghệ sĩ do danh tiếng phủ sóng trên các kênh truyền thông, mạng xã hội, chứ không xuất phát từ số liệu doanh thu sản phẩm nghệ thuật, vì bản chất nghệ sĩ ở Việt Nam ít “fan ruột” (fan trung thành) đầu tư cho thần tượng.
Khi khán giả chưa chịu bỏ tiền “mua”, thì người nghệ sĩ cũng chưa có áp lực phải làm sản phẩm tốt để giữ chân người hâm mộ. Họ được nuôi sống trực tiếp từ nhãn hàng, đối tác chứ không phải fan.
Chỉ khi văn hóa nghệ thuật biểu diễn được công nghiệp hóa, sự tẩy chay, đào thải có sức nặng. Buộc nghệ sĩ phải hoạt động chân chính, chuyên nghiệp hơn.
Nghệ sĩ phải tạo ra sản phẩm chất lượng, đồng thời giữ đạo đức nghề nghiệp, lối sống để xứng đáng với tình cảm, sự ủng hộ và cả sự chi trả của khán giả.
Nguồn: Báo điện tử Kiến thức
Hiền Hồ vừa tái xuất sau 6 tháng im hơi lặng tiếng vì bê bối đời tư. Trên mạng xã hội, nhiều khán giả chỉ trích nữ ca sĩ, nhưng có một bình luận như thế này: “Giờ không thích thì cũng chỉ tẩy chay trên mạng, dislike MV, chứ sao mà ngăn cản được”.
Trường hợp của giọng ca “Gặp nhưng không ở lại” tương tự với lần trở lại của Jack, sau thời gian anh vướng scandal tình ái hồi tháng 8 năm ngoái. Nam ca sĩ vẫn tham gia chương trình truyền hình thực tế, tung MV mới bất chấp dư luận.
Mặc dù bị tẩy chay trên mạng xã hội, song nhìn chung, những nghệ sĩ như Jack, Hiền Hồ hầu như sẽ tiếp tục trở lại hoạt động nghệ thuật sau scandal.
Đến đây, nhiều người so sánh showbiz Việt với showbiz Trung, Hàn để thấy sự khác biệt.
Tài tử Trung Quốc Lý Dịch Phong bị tẩy chay, cấm sóng vì scandal.
Trường hợp mới nhất là việc tài tử Lý Dịch Phong bị bắt giữ điều tra vì hành vi mua dâm. Trong vòng 1 ngày, hàng loạt nhãn hàng tuyên bố dừng hợp tác, âm thầm xóa thông tin/ hình ảnh liên quan đến anh này.
Đài truyền hình cắt sóng, nền tảng phim ảnh xóa tên Lý Dịch Phong khỏi những bộ phim từng đóng, các giải thưởng Hoa Đỉnh, Kim Ngưu… cũng bị xóa sổ trên hệ thống. Khán giả quay lưng, gọi anh là “nỗi ô nhục của giới giải trí”.
Hay ở Hàn Quốc, thành - bại của các nhóm nhạc Kpop chủ yếu dựa vào sự ủng hộ của fandom (cộng đồng người hâm mộ). Danh tiếng toàn cầu BTS, Blackpink có được phần lớn nhờ vào fandom tích cực, tận tâm.
Ngược lại, như trường hợp của T-ARA năm 2012. Khi đang ở đỉnh cao, chỉ vì tranh cãi bắt nạt thành viên Hwayoung, nhóm bị tẩy chay khủng khiếp đến mức không thể cứu vãn… để thấy, “quyền lực” của fan Kpop lớn như thế nào.
Nhiều ý kiến cho rằng, cần có chế tài xử phạt nghiêm khắc những nghệ sĩ vướng scandal như showbiz Trung mới có tính răn đe.
Song, mặt khác, chính khán giả Việt cũng cần tự tạo cho mình thứ “quyền lực” đủ mạnh, thì mới có thể nâng cao sức ảnh hưởng đối với nghệ sĩ.
Khán giả cần “trả giá”
Từng có cuộc tranh luận về việc “Khán giả và nghệ sĩ, ai nuôi ai?”. Nghệ sĩ và công chúng luôn có mối liên hệ qua lại, điều này không thể phủ nhận.
Nhưng nhìn vào thực tế, nếu so sánh giới giải trí Việt với những nền công nghiệp giải trí lớn như Hàn, Trung có thể thấy, khán giả Việt chưa “trực tiếp nuôi sống” nghệ sĩ. Nói một cách dễ hiểu hơn là khán giả Việt chưa chịu bỏ tiền ra ủng hộ sản phẩm nghệ thuật.
Ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc kiếm tiền nhiều nhất từ bán album vật lý (đĩa CD), bán vé các buổi hòa nhạc (concert), mua nhạc trên các nền tảng trả phí. Dựa vào số liệu này sẽ cho thấy độ nổi tiếng của nghệ sĩ, từ đó nhãn hàng mới lựa chọn nghệ sĩ làm gương mặt đại diện, ký hợp đồng quảng cáo.
“Quyền lực” của fan cũng buộc nghệ sĩ phải hoạt động chăm chỉ, tạo ra sản phẩm chất lượng để được ủng hộ, kiếm tiền từ “nghề nghệ thuật”.
Nghệ sĩ sợ bị quay lưng nên luôn cố gắng giữ hình ảnh, đạo đức tốt và "chiều chuộng", tôn trọng người hâm mộ.
Nhưng ngược lại, ở Việt Nam, sản phẩm nghệ thuật chưa được “công nghiệp hóa” như món hàng có giá trị.
Khán giả chủ yếu nghe nhạc trên nền tảng miễn phí, không chi tiền mua đĩa CD (vì vậy nghệ sĩ cùng “lười” sản xuất), ít concert được tổ chức vì khán giả ít khi bỏ tiền mua vé.
Nhãn hàng ký hợp đồng quảng cáo với nghệ sĩ do danh tiếng phủ sóng trên các kênh truyền thông, mạng xã hội, chứ không xuất phát từ số liệu doanh thu sản phẩm nghệ thuật, vì bản chất nghệ sĩ ở Việt Nam ít “fan ruột” (fan trung thành) đầu tư cho thần tượng.
Khi khán giả chưa chịu bỏ tiền “mua”, thì người nghệ sĩ cũng chưa có áp lực phải làm sản phẩm tốt để giữ chân người hâm mộ. Họ được nuôi sống trực tiếp từ nhãn hàng, đối tác chứ không phải fan.
Chỉ khi văn hóa nghệ thuật biểu diễn được công nghiệp hóa, sự tẩy chay, đào thải có sức nặng. Buộc nghệ sĩ phải hoạt động chân chính, chuyên nghiệp hơn.
Nghệ sĩ phải tạo ra sản phẩm chất lượng, đồng thời giữ đạo đức nghề nghiệp, lối sống để xứng đáng với tình cảm, sự ủng hộ và cả sự chi trả của khán giả.
Nguồn: Báo điện tử Kiến thức