Thế giới nghề nghiệp

lehoa012

Điều hành viên
Thành viên BQT
#1
Khái niệm chung về nghề
Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.
Nghề nghiệp trong xã hội không phải là một cái gì cố định, cứng nhắc. Nghề nghiệp cũng giống như một cơ thể sống, có sinh thành, phát triển và tiêu vong. Chẳng hạn, do sự phát triển của kỹ thuật điện tử nên đã hình thành công nghệ điện tử, do sự phát triển vũ bão của kỹ thuật máy tính nên đã hình thành cả một nền công nghệ tin học đồ sộ bao gồm việc thiết kế, chế tạo cả phần cứng, phần mềm và các thiết bị bổ trợ v.v… Công nghệ các hợp chất cao phân tử tách ra từ công nghệ hóa dầu, công nghệ sinh học và các ngành dịch vụ, du lịch tiếp nối ra đời…

Ở Việt Nam trong những năm gần đây, do sự chuyển biến của nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường, nên đã gây ra những biến đổi sâu sắc trong cơ cấu nghề nghiệp của xã hội. Trong cơ chế thị trường, nhất là trong nền kinh tế tri thức tương lai, sức lao động cũng là một thứ hàng hóa. Giá trị của thứ hàng hóa sức lao động này tuỳ thuộc vào trình độ, tay nghề, khả năng về mọi mặt của người lao động. Xã hội đón nhận thứ hàng hóa này như thế nào là do “hàm lượng chất xám” và “chất lượng sức lao động” quyết định. Khái niệm phân công công tác sẽ mất dần trong quá trình vận hành của cơ chế thị trường. Con người phải chủ động chuẩn bị tiềm lực, trau dồi bản lĩnh, nắm vững một nghề, biết nhiều nghề để rồi tự tìm việc làm, tự tạo việc làm…

Khi giúp đỡ thanh niên chọn nghề, một số nhà nghiên cứu thường đặt câu hỏi: “Bạn biết được tên của bao nhiêu nghề?”. Nghe hỏi, nhiều bạn trẻ nghĩ rằng mình có thể kể ra nhiều nghề, song khi đặt bút viết thì nhiều bạn không kể được quá 50 nghề.Bạn tưởng như thế đã là nhiều, song nhà nghiên cứu lại nhận xét: Chà, sao biết ít vậy!

Để hiểu vì sao nhà nghiên cứu lại kêu lên như vậy, chúng ta hãy cùng nhau làm sáng rõ 2 khái niệm Nghề Chuyên môn.

Nghề là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ được đào tạo, con người có được những tri thức, những kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội.

Nghề bao gồm nhiều chuyên môn. Chuyên môn là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp mà ở đó, con người bằng năng lực thể chất và tinh thần của mình làm ra những giá trị vật chất (thực phẩm, lương thực, công cụ lao động…) hoặc giá trị tinh thần (sách báo, phim ảnh, âm nhạc, tranh vẽ…) với tư cách là những phương tiện sinh tồn và phát triển của xã hội.

Trên thế giới hiện nay có trên dưới 2000 nghề với hàng chục nghìn chuyên môn. Ở Liên Xô trước đây, người ta đã thống kê được 15.000 chuyên môn, còn ở nước Mỹ, con số đó lên tới 40.000.
Vì hệ thống nghề nghiệp trong xã hội có số lượng nghề và chuyên môn nhiều như vậy nên người ta gọi hệ thống đó là “Thế giới nghề nghiệp”. Nhiều nghề chỉ thấy có ở nước này nhưng lại không thấy ở nước khác. Hơn nữa, các nghề trong xã hội luôn ở trong trạng thái biến động do sự phát triển của khoa học và công nghệ. Nhiều nghề cũ mất đi hoặc thay đổi về nội dung cũng như về phương pháp sản xuất. Nhiều nghề mới xuất hiện rồi phát triển theo hướng đa dạng hóa. Theo thống kê gần đây, trên thế giới mỗi năm có tới 500 nghề bị đào thải và khoảng 600 nghề mới xuất hiện. Ở nước ta, mỗi năm ở cả 3 hệ trường (dạy nghề, trung học chuyên ngiệp và cao đẳng - đại học) đào tạo trên dưới 300 nghề bao gồm hàng nghìn chuyên môn khác nhau.
 

lehoa012

Điều hành viên
Thành viên BQT
#2
Phân loại nghề

Muốn nhận thức một cách khoa học về các sự vật và hiện tượng, người ta thường dùng phương pháp phân loại. Ví dụ: phân loại động vật, thực vật, ôtô, máy bay, tên lửa, vệ tinh nhân tạo, các nền văn minh, các loại kiến trúc… Song, khi phân loại nghề nghiệp, các nhà khoa học vấp phải không ít khó khăn vì số lượng nghề và chuyên môn quá lớn, tính chất và nội dung các nghề quá phức tạp.

Có người đề nghị phân loại nghề theo các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân: nông nghiệp, công nghiệp, xây dựng, giao thông, giáo dục, an ninh, quốc phòng… Làm theo cách này, người ta thấy thuận tiện cho việc thống kê các thành tích của từng lĩnh vực, những đóng góp của các ngành vào thu nhập quốc nội (GDP) v.v…, nhưng lại thấy có những bất hợp lý. Chẳng hạn, nghề lái xe xếp vào lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải hay xây dựng? Trên thực tế, các lĩnh vực kể trên đều cần đến phương tiện vận tải là ôtô. Vì vậy, cách phân loại này chỉ sử dụng trong một số công việc nào đó.

Nhà khoa học Líp-man đưa ra một cách phân loại khác, trong đó, có phân biệt nghề sáng tạo và không sáng tạo. Nhiều người không đồng tình bởi cho rằng hình thức lao động nào cũng có thể mang tính sáng tạo. Về vấn đề này, đại văn hào Măc-xim Goóc-ky có một ý kiến rất chí lý rằng, nếu ta yêu thích công việc ta làm thì dù công việc đó có đơn giản đến đâu, nó cũng có thể mang ý nghĩa sáng tạo.

Cũng có nhà khoa học đưa ra cách phân loại nghề theo yêu cầu của nghề đối với người lao động. Với cách phân loại này, các nghề được phân vào 8 lĩnh vực sau đây:


1/ Những nghề thuộc lĩnh vực hành chính
Trong lĩnh vực này, ta gặp những cán bộ, nhân viên văn phòng, đánh máy, lưu trữ, kế toán, kiểm tra, chấm công, soạn thảo công văn… Những nghề này đòi hỏi con người đức tính thận trọng, chu đáo, ngăn nắp, chín chắn, tỉ mỉ. Mọi tác phong và thói quen không hay như cẩu thả, bừa bãi, đại khái, thiếu ngăn nắp, thờ ơ, lãnh đạm… đều không phù hợp với công việc hành chính.
2/ Những nghề thuộc lĩnh vực tiếp xúc với con người
Ở đây, ta có thể kể đến những nhân viên bán hàng, những thầy thuốc, thầy giáo, những người phục vụ khách sạn, những cán bộ tổ chức v.v… Những người này luôn phải có thái độ ứng xử hòa nhã, chân thành, tế nhị, tinh ý, mềm mỏng, linh hoạt, ân cần, cởi mở…
Thái độ và hành vi đối xử lạnh nhạt, thờ ơ, thiếu thông cảm, thiếu nâng đỡ, vụ lợi v.v… đều xa lại với các công việc nói trên.
3/ Những nghề thợ (công nhân)
Tính chất nội dung lao động của nghề thợ rất đa dạng. Có những người thợ làm việc trong các ngành công nghiệp (thợ dệt, thợ tiện, thợ phay, thợ nguội, thợ chỉnh công cụ …), trong các ngành tiểu thủ công nghiệp (thợ thêu, thợ làm mây tre đan, sơn mài…), trong lĩnh vực dịch vụ (cắt tóc, sửa chữa đồ dùng gia đình…) và rất nhiều loại thợ khác như lái tàu hỏa, ô tô, xe điện, in ấn, xây dựng, khai thác tài nguyên…
Nghề thợ đại diện cho nền sản xuất công nghiệp. Tác phong công nghiệp, tư duy kỹ thuật, trí nhớ, tưởng tượng không gian, khéo tay… là những yếu tố tâm lý cơ bản không thể thiếu được ở người thợ.
Nghề thợ đang có sự chuyển biến về cấu trúc: những nghề lao động chân tay sẽ ngày càng giảm, lao động trí tuệ sẽ tăng lên. Ở những nước công nghiệp hiện nay như Mỹ, Pháp, Anh… số công nhân “cổ trắng” (công nhân trí thức) đã đông hơn công nhân “cổ xanh” (công nhân làm những công việc tay chân nặng nhọc).
4/ Những nghề trong lĩnh vực kỹ thuật
Nghề kỹ thuật rất gần với nghề thợ. Đó là nghề của các kỹ sư thuộc nhiều lĩnh vực sản xuất. nghề kỹ thuật đòi hỏi người lao động lòng say mê với công việc thiết kế và vận hành kỹ thuật, nắm chắc những tri thức khoa học hiện đại, có khả năng tiếp cận với công nghệ mới. Người làm nghề kỹ thuật phải có nhiệt tình và óc sáng tạo trong công việc. Họ còn đóng vai trò tổ chức sản xuất, do đó năng lực tổ chức có vị trí cơ bản.
5/ Những nghề trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật
Văn học, nghệ thuật là một lĩnh vực hoạt động đa dạng mà tính sáng tạo là một đặc trưng nổi bật. Tính không lặp lại, tính độc đáo và riêng biệt trở thành yếu tố tiên quyết trong mỗi sản phẩm thơ văn, âm nhạc, phim ảnh, biểu diễn nghệ thuật… Trong hoạt động văn học và nghệ thuật, ta thấy có rất nhiều gương mặt nhà văn, nhà thơ, nhà soạn nhạc, nhà viết kịch, nhà ảo thuật, các diễn viên điện ảnh, xiếc, ca nhạc, nhà nhiếp ảnh, nhà đạo diễn phim, người trang trí sân khấu và cửa hàng v.v… Yêu cầu chung của nghề nghiệp đối với họ là phải có cảm hứng sáng tác, sự tinh tế và nhạy bén trong cảm thụ cuộc sống, lối sống có cá tính và có văn hóa, gắn bó với cuộc sống lao động của quần chúng. Ngoài ra, người làm công tác văn học, nghệ thuật phải có năng lực diễn đạt tư tưởng và tình cảm, năng lực tác động đến người khác bằng ngôn ngữ, năng lực thâm nhập vào quần chúng.
6/ Những nghề thuộc lĩnh vực nghiên cứu khoa học
Đó là những nghề tìm tòi, phát hiện những quy luật trong đời sống xã hội, trong thế giới tự nhiên cũng như trong tư duy con người. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải say mê tìm kiếm chân lý, luôn luôn học hỏi, tôn trọng sự thật, thái độ thật khách quan trước đối tượng nghiên cứu, người nghiên cứu khoa học phải rèn luyện tư duy logic, tích lũy tri thức, độc lập sáng tạo… Ngoài ra, họ còn phải là con người thực sự khiêm tốn, trung thực, bảo vệ chân lý đên cùng.
7/ Những nghề tiếp xúc với thiên nhiên
Đó là những nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuần dưỡng súc vật, nghề trồng trọt, khai thác gỗ, trồng rừng, trồng hoa và cây cảnh… Muốn làm những nghề này, con người phải yêu thích thiên nhiên, say mê với thế giới thực vật và động vật. Mặt khác, họ phải cần cù, chịu đựng khó khăn, thích nghi với hoạt động ngoài trời, thận trọng và tỉ mỉ.
8/ Những nghề có điều kiện lao động đặc biệt
Thuộc lĩnh vực lao động này, ta thấy có những công việc như lái máy bay thí nghiệm, du hành vũ trụ, khai thác tài nghuyên dưới đáy biển, thám hiểm… Những người làm nghề này phải có lòng quả cảm, ý chí kiên định, say mê với tính chất mạo hiểm của công việc, không ngại khó khăn, gian khổ, không ngại hi sinh, thích ứng với cuộc sống không ổn định.
 

lehoa012

Điều hành viên
Thành viên BQT
#3
Công thức nghề là gì?

Một trong những cách phân loại nghề hợp lý là xây dựng công thức nghề. Những nghề có cùng công thức được xếp vào một loại. Nếu phù hợp với một nghề thì tất nhiên sẽ phù hợp với những nghề cùng loại.
Cách lập công thức nghề như sau:

Người ta nhận thấy rằng nghề nào cũng có 4 dấu hiệu cơ bản là:
- Đối tượng lao động
- Mục đích lao động
- Công cụ lao động
- Điều kiện lao động
1/ Đối tượng lao động
Đối tượng lao động là hệ thống những thuộc tính, những mối quan hệ qua lại của các sự vật, các hiện tượng, các quá trình mà ở cương vị lao động nhất định, con người phải vận dụng chúng.

Ví dụ: đối tượng lao động của người làm nghề trồng trọt là những cây trồng cùng những điều kiện sinh sống và phát triển của chúng như đất đai, cỏ dại, đặc điểm khí hậu, thời tiết, tác dụng của thuốc trừ sâu các loại… Những thuộc tính của cây trồng, của môi trường phát triển rất đa dạng và phức tạp: sức phát triển của mầm, phương thức diệt cỏ dại, khả năng thích ứng của cây đối với cách thức chăm sóc, với thời tiết thay đổi.

Căn cứ vào đối tượng lao động, người ta chia các nghề ra thành 5 kiểu. Đó là:

- Nghề “Người tiếp xúc với thiên nhiên” (trồng trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ rừng…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nt.
- Nghề “Người tiếp xúc với kỹ thuật” (các loại thợ nề, thợ tiện, thợ nguội, lắp ráp máy truyền hình và máy tính, thợ sửa chữa công cụ…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nk.
- Nghề “Người tiếp xúc với người” (nhân viên bán hàng, nhân viên phục vụ khách sạn, thầy thuốc, thầy giáo, thẩm phán v.v…). Kiểu nghề này được ký hiệu là N2.
- Nghề “Người tiếp xúc với các dấu hiệu” (thư ký đánh máy, chế bản vi tính, ghi tốc ký, sắp chữ in, lập trình máy tính…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nd.
- Nghề “Người tiếp xúc với nghệ thuật” (họa sĩ, nhà soạn nhạc, thợ trang trí, thợ sơn…). Kiểu nghề này được ký hiệu là Nn.

2/ Mục đích lao động

Mục đích lao động là kết quả mà xã hội đòi hỏi, trông đợi ở người lao động. Mục đích cuối cùng của lao động trong nghề phải trả lời được câu hỏi: “Làm được gì?”. Ví dụ: mục đích của người dạy học là mang lại kiến thức, học vấn cho con người, giúp cho con người hình thành một số phẩm chất nhân cách. Mục đích của thầy thuốc là làm cho người bệnh trở thành người khỏe mạnh, giúp cho con người bảo vệ và phát triển sức khỏe, thể lực trong đời sống hàng ngày.

Căn cứ vào mục đích lao động, người ta chia các nghề thành 3 dạng sau đây:

- Nghề có mục đích nhận thức đối tượng (thanh tra chuyên môn, điều tra vụ án, kiểm tra kho hàng, kiểm kê tài sản…). Dạng nghề này được ký hiệu là N.
- Nghề có mục đích biến đổi đối tượng (dạy học, chữa bệnh, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, thủ công nghiệp…). Dạng nghề này được ký hiệu là B.
- Nghề có mục đích tìm tòi, phát hiện, khám phá những cái mới (nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học nghệ thuật, tạo giống mới, thiết kế thời trang…). Dạng nghềnày được ký hiệu là T.

3/ Công cụ lao động

Công cụ lao động bao gồm các thiết bị kỹ thuật, các dụng cụ gia công, các phương tiện làm tăng năng lực nhận thức của con người về các đặc điểm của đối tượng lao động, làm tăng sự tác động của con người đến đối tượng đó. Những máy móc để biến đổi năng lượng, xử lý thông tin, đo lường chất lượng sản phẩm, những công thức và quy tắc tính toán cũng được coi là công cụ lao động.

Ví dụ: Cần cẩu là công cụ lao động, là “cánh tay kéo dài” của thợ lái máy xúc đất và mang chuyển hàng hóa từ vị trí này sang vị trí khác. Xe vận tải là công cụ lao động của những người chuyên chở hàng hóa, làm tăng sức mang vác của họ có khi đến hàng nghìn, hàng vạn lần.

Căn cứ vào công cụ lao động, người ta chia các nghề thành 4 loại sau đây:

- Nghề với những hình thức lao động chân tay (khuân vác, khơi thông cống rãnh, lắp đặt ống nước, quét rác…). Loại nghề này được ký hiệu là Lt.
- Nghề với những công việc bên máy (tiện, phay, xây dựng, lái xe…). Loại nghề này được ký hiệu là Lm1.
- Nghề làm việc bên máy tự động (làm việc ở bàn điều khiển, các loại máy thêu, máy dệt, máy in hoa trên vải, tiện hoặc phay các chi tiết theo chương trình máy tính…). Loại nghề này được ký hiệu là Lm2.
- Nghề lao động bằng những công cụ đặc biệt như ngôn ngữ, cử chỉ (dạy học, làm thơ, múa hát, nghiên cứu lý luận…). Loại nghề này được ký hiệu là Lđ.

4/ Điều kiện lao động

Điều kiện lao động ở đây được hiểu là những đặc điểm của môi trường làm việc. Căn cứ vào điều kiện lao động, người ta chia các nghề thành 4 nhóm sau đây:

- Nghề cần phải tính đến môi trường đạo đức, chính trị là chủ yếu (xử án, chữa bệnh, dạy học, quản giáo tội phạm…). Nhóm nghề này đượcký hiệu là Đ.
- Nghề được tiến hành trong không gian sinh hoạt bình thường (kế toán, đánh máy, trực điện thoại, lưu trữ tài liệu, thợ may…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Ks.
- Nghề làm trong khoảng không gian khoáng đạt, gần gũi với thiên nhiên (chăn gia súc, súc vật trên đồng cỏ, trồng rừng, bảo vệ rừng, trồng hoa…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Kk
- Nghề được tiến hành trong điều kiện đặc biệt (du hành vũ trụ, thám hiểm đáy biển, lái máy bay thí nghiệm, xây dựng dưới nước…). Nhóm nghề này được ký hiệu là Kđ.
Tổ hợp các dấu hiệu Kiểu, Dạng, Loại, Nhóm của một nghề cho ta công thức của nghề đó. Ví dụ:

-Công thức của nghề dạy học là: N2BLđĐ
-Công thức của nghề lái xe là: NkBLm1Kk
Thật ra công thức nghề cũng chỉ bảo đảm mức độ tượng đối chính xác về các dấu hiệu nói trên. Hiện nay, việc phân loại nghề theo công thức nghề là một bước tiến mới trong quá trình nhận thức thế giới nghề nghiệp. Đến đây ta thấy rằng, có một số nghề chung nhau công thức. Do vậy, nếu không chọn được một nghề nào đó, ta có thể chọn cho mình một nghề khác có cùng công thức. Cũng có những nghề khác nhau nhiều hoặc ít về công thức nghề. Một người sẽ rất khó chuyển từ nghề này sang nghề khác mà giữa hai nghề ấy có sự khác biệt quá lớn trong công thức nghề.
 

lehoa012

Điều hành viên
Thành viên BQT
#4
Sự phù hợp nghề

Để có sự thành đạt trong nghề, con người phải chọn cho mình một nghề phù hợp. Trong xã hội ngày nay, số lượng nghề ngày càng tăng, con người không dễ dàng gì lựa chọn cho mìnhmột nghề giữa hàng trăm nghề khác nhau.

Đề cập tới việc chọn được nghề phù hợp, trước hết ta phải làm rõ khái niệm phù hợp nghề. Sự phù hợp nghề được xem là sự hòa hợp, sự ăn khớp, sự tương xứng trong cặp “Con người - Nghề nghiệp”, mà cụ thể hơn, là sự tương ứng giữa những phẩm chất, đặc điểm tâm - sinh lý của con người với những yêu cầu cụ thể của công việc trong nghề đối với người lao động. Nói như vậy ta sẽ thấy ngay rằng, sự phù hợp nghề có nhiều mức độ. Thông thường, người ta chia thành 4 mức độ sau đây:

1/ Không phù hợp: Sự không phù hợp có nhiều nguyên nhân như trạng thái sức khỏe, thiếu năng lực chuyên môn hoặc bị dị tật. Ví dụ muốn đi vào nghề hội họa, lái xe, nhuộm vải, sáng tạo “mốt” quần áo thì tối kỵ bệnh mù màu (không phân biệt màu xanh với màu đỏ). Muốn theo nghề thợ lặn, đi tàu biển hoặc lái máy bay thì nhất thiết không được mắc bệnh tim mạch, bệnh đường hô hấp…

2/ Phù hợp một phần: Ở mức độ này, nhiều phẩm chất, nhiều đặc điểm tâm - sinh lý của người lao động không đáp ứng được hết những yêu cầu do nghề đặt ra. Nếu chỉ phù hợp một phần thì con người rất khó trở thành một chuyên gia giỏi trong nghề.

3/ Phù hợp phần lớn: Trong trường hợp này, những phẩm chất cá nhân đáp ứng được hầu hết các yêu cầu cơ bản của nghề hoặc của nhóm nghề. Mức độ phù hợp phần lớn thường thể hiện rất rõ ở hứng thú với công việc của nghề, ham thích và có năng lực giải quyết nhiều hoạt động kỹ thuật trong nghề. Có được sự phù hợp phần lớn này, con người sẽ thuận lợi trong phấn đấu trở thành người lao động có tay nghề cao hoặc dễ có được những thăng tiến nghề nghiệp so với những người ít phù hợp với nghề hơn.
4/ Phù hợp hoàn toàn: Đạt tới mức độ này, ta thấy con người đáp ứng được tất cả những yêu cầu cơ bản do nghề đặt ra. Trong hoạt động nghề nghiệp, người lao động có năng suất cao, thể hiện rõ xu hướng hoạt động và lý tưởng nghề nghiệp.
 

Bình luận bằng Facebook

Top