Nữ nhân hiếm hoi của Trung Hoa cổ đại được nhắc đến trong Truyện Kiều

Khánh Linh

Điều hành viên
Thành viên BQT
#1
Trong Truyện Kiều, buổi đầu Thuý Kiều gặp Kim Trọng "chốn thư hiên", khi Thúy Kiều đề thơ trên bức họa đã được Kim Trọng nức nở: "Khen tài nhả ngọc phun châu/Nàng Ban, ả Tạ cũng đau thế này".

Nàng Ban được đại thi hào Nguyễn Du đề cập đến trong hai câu thơ trên không ai khác chính là Ban Chiêu (45 – 116) còn có tên Ban Cơ, tiểu tự là Huệ Ban, xuất thân thế gia vọng tộc họ Ban đời Đông Hán. Sinh trưởng trong một gia đình có bề dày truyền thống, Ban Chiêu thông tuệ chữ nghĩa, âm thông kinh sử, hiểu đạt lễ nghi.





Nữ nhân hiếm hoi uyên bác văn chương.


Ban Chiêu sinh ra ở Phù Phong, An Lăng, nay là khu vực gần Hàm Dương, Thiểm Tây, trong một gia đình Nho giáo nổi tiếng. Tổ tiên của bà là Lệnh doãn nước Sở Tử Văn. Tổ phụ là Ban Trĩ, con trai của Ban Huống và là anh của Ban Tiệp dư – phi tần của Hán Thành Đế.

Cha bà là Ban Bưu, là nhà văn nổi tiếng Trung Quốc thời điểm bấy giờ. Ngoài ra, bà còn có hai người anh: một là Ban Cố, nhà sử gia nổi tiếng, người còn lại là Đại tướng quân Ban Siêu, có công trấn giữ Tây Vực, chống lại Hung Nô.

Sinh trưởng và phát triển trong một gia tộc giàu truyền thống, ngay từ khi còn bé, Ban Chiêu đã không giống với đa phần nữ nhân sống cùng thời. Kế thừa những giá trị quý báu cũng như truyền thống văn chương rực rỡ, bà được giáo dục tư cách đạo đức, trau dồi phẩm hạnh, rèn luyện văn chương thi phú, sử sách và không ngừng mở mang học hỏi thêm tri thức mới. Điều này khiến bà được tin tưởng giao cho trọng trách dạy kinh sử cho hoàng hậu cũng như các quý nhân trong cung.





Sự uyên thâm của Ban Chiêu nổi tiếng đến mức, sử sách có ghi chép lại rằng, Mã Dung - một học giả lớn cùng thời, vì muốn cầu được sự chỉ dẫn của bà, đã chấp nhận quỳ rất lâu ở bên ngoài thư viện để nghe bà giảng giải.

Sử gia đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc

Vốn có tài văn chương từ nhỏ, lại đam mê nghiên cứu, tìm hiểu sử sách kim cổ, Ban Chiêu đã giúp anh trai Ban Cố viết nên cuốn Tiền Hán Thư - cuốn sử mang thể loại ký truyện đầu tiên của Trung Quốc, sánh ngang với Sử Ký của Tư Mã Thiên thời Tây Hán trong lịch sử. Cha của Ban Chiêu là người đầu tiên bắt tay vào việc viết bộ sử này.

Sau khi cha qua đời, anh trai Ban Cố nối tiếp hoàn thành. Tuy nhiên, chỉ được một thời gian ngắn, sau này, do mâu thuẫn với triều đình Hán Hòa Đế, Ban Cố bị tống giam và chết, để lại tác phẩm còn dang dở.





Tiếp tục con đường của cha anh, Ban Chiêu dâng sớ xin Hán Hòa Đế cho phép vào Đông Quan tàng thư để tiếp tục công việc biên soạn bộ Hán Thư này. Những phần do bà soạn từ tập 13 đến 20 và tập 26 được coi là mẫu mực cho nhiều tác phẩm lịch sử về sau. Những chương hay và gay cấn nhất của bộ sử cũng đều do Ban Chiêu hoàn thành.

Sau đó, Hán Hòa Đế cho mời Ban Chiêu vào cung dạy học cho cung nhân, bà được gọi là Tào đại gia. Mỗi lần các địa phương cống lên những thứ trân quý mới lạ, Hòa Đế đều gọi Ban Chiêu sáng tác phú để tán dương.

Trong suốt cuộc đời mình, với tài năng văn chương và trí tuệ lỗi lạc, bà đã có những cống hiến lớn lao cho giới sử học và chính trường. Những tác phẩm văn chương của bà cho tới ngày hôm nay không còn được lưu giữ nhiều, chỉ còn lưu lại Đông Chinh phú và Nữ giới. Đây là 2 tác phẩm lớn có ảnh hưởng sâu sắc tới văn học các đời sau.





Chính trị gia có tầm ảnh hưởng lớn lao.


Năm 105, Hán Hòa Đế qua đời khi mới 27 tuổi. Do người anh của Lưu Long là Lưu Thắng, con trưởng của Hòa Đế, bị tật nguyền không thể nối ngôi nên Lưu Long được ẵm lên ngôi, trở thành Hán Thương Đế.

Lưu Thắng được phong làm Bình Nguyên vương. Khi được đưa lên ngôi, Lưu Long mới 100 ngày tuổi, là vua lên ngôi trẻ tuổi nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thái hậu Đặng Tuy – hoàng hậu của Hòa Đế, nhiếp chính.

Triều chính rối ren, xã tắc loạn tặc, Thái Hậu Đặng Tuy phải vất vả dẹp loạn, đảm nhiệm việc triều chính. Vốn khâm phục trí tuệ của Ban Chiêu, Đặng thái hậu thường xin ý kiến của bà trong việc đại sự và coi bà như thầy.

Thời gian đó, rất nhiều ý kiến, lời khuyên của Ban Chiêu đã tạo nên những chính sách quan trọng cho đất nước. Đặng Thái hậu nhờ vậy đã có những quyết định sáng suốt, điều hành triều đình nhà Hán suốt 2 đời vua và được người đời ca tụng bởi sự uyên bác, bao dung, lễ độ.





Đặng Thái hậu lâm triều nghe chính, Ban Chiêu được phép cùng Thái hậu bàn luận chính sự. Bà thông minh đoan chính, can gián điều sai, góp nhiều ý kiến bàn luận sâu sắc khiến Thái hậu rất tâm đắc.

Có câu chuyện được sử sách ghi chép về lời can gián của Ban Chiêu trình Đặng Thái hậu như sau: Năm 107, anh trai Thái hậu là Đặng Chất nhân do mẫu thân Âm phu nhân qua đời, xin thái hậu cho từ quan về quê. Đặng Thái hậu ban đầu không đồng ý, hỏi ý kiến Ban Chiêu, bà đáp:

‘‘Hoàng thái hậu bệ hạ mỹ đức thịnh hành, nối được ơn đức của Nghiêu Thuấn, khiến thiên hạ thái bình. Thần hạ ngu muội, đắc ngộ minh chủ, không có bản lĩnh như thế, nay xin đưa ra vài ngu kiến. Thần nghe thánh hiền xưa, ca ngợi việc khiêm nhượng, là thấy bản thân lực bất tòng tâm thì nhượng cho kẻ hiền, mãi được đời sau ca ngợi.





Xưa có Bá Di, Thúc Tề không ham danh lợi mà nhượng ngôi quốc quân, thiên hạ khen không tiếc lời sự cao thượng của 2 người. Thái Bá nhượng vị cho Quý Lịch, đức Khổng Tử 3 lần khen ngợi không dứt. Ân đức của họ được lưu truyền, mãi là tấm gương cho hậu thế. Luận Ngữ có viết: “Năng dụng lễ nhượng trị quốc, tòng chánh hoàn hữu thập yêu khả vi nan ni?” là để nói nên thôi nhượng mĩ đức, ảnh hưởng sâu xa.

Nay, 4 vị quốc cữu kiên tuẫn trung hiếu, nhất định từ quan về quê, nếu như cự tuyệt ý định, e rằng về sau không có tiếng hiền, lại còn mang danh ngoại thích lộng quyền. Thần thiếp ngu kiến trần ngôn, cốt gắng sức suy nghĩ cho Bệ hạ, để báo ân đức của Bệ hạ đối với ngu thiếp’’.

Lời bà đưa ra đạo lý thâm sâu, hợp tình người, cũng là lời dạy cho một bậc được coi là mẫu nghi thiên hạ. Tuy hết sức hạ mình đưa ra lời can gián, song trí tuệ và sự uyên thâm trong sách lối của bà khiến Đặng thái hậu lắng nghe và thuận theo.

Như vậy mới thấy rằng, Ban Chiêu không chỉ là một người tài năng lỗi lạc, am hiểu lịch sử, một chính gia giỏi mà hơn hết bà là một người phụ nữ đức hạnh, thông hiểu lễ nghi. Bà được hậu thế ví như Khổng Tử phiên bản nữ.
Nguồn: Báo điện tử Kiến Thức
 

Bình luận bằng Facebook

Top