Lồng ghép giáo dục môi trường hiệu quả trong dạy học Địa lý

Hoài An

Điều hành viên
Thành viên BQT
#1
Sử dụng các phương tiện trực quan

Với phương pháp trực quan, cô Nguyễn Thiếu Ngân cho biết, giáo viên (GV) có thể sử dụng các phương tiện trực quan như bản đồ, biểu đồ, sơ đồ, tranh ảnh, băng hình… để dạy học và giáo dục môi trường.

Phương tiện trực quan bao giờ cũng có hai chức năng: Nguồn tri thức và đồ dùng minh hoạ. Hiệu quả của phương pháp này phụ thuộc vào mục đích và chức năng sử dụng của GV trong quá trình dạy học.

Để liên hệ kiến thức bài học chính với kiến thức môi trường, việc sử dụng phương tiện trực quan cũng mang lại hiệu quả cao. Theo cô Ngân, có hai cách sử dụng phương tiện trực quan để liên hệ và giáo dục môi trường như sau:

GV hướng dẫn học sinh (HS) khai thác kiến thức về môi trường và giáo dục môi trường từ phương tiện trực quan thông qua hệ thống câu hỏi gợi mở.

GV dùng phương tiện trực quan để minh hoạ và chứng minh cho một hiện tượng, một hậu quả về môi trường cần phải giáo dục.

Ví dụ bài 38: Bảo vệ tài nguyên sinh vật Việt Nam. Sau khi HS nhận thức được vai trò của rừng, biết được hiện trạng rừng nước ta đang bị giảm sút nhanh chóng, giáo viên có thể sử dụng hình ảnh hay một sơ đồ vẽ chuỗi các mối quan hệ nhân quả của việc mất rừng, kèm theo một số câu hỏi gợi mở để khai thác kiến thức như sau:

Quan sát tranh và những hiểu biết em hãy cho biết những nguyên nhân nào làm cho diện tích rừng của nước ta giảm sút nhanh chóng? Khi mất rừng sẽ dẫn đến những hậu quả gì?

Chúng ta phải làm gì để bảo vệ rừng? Là học sinh đang ngồi trên ghế nhà trường em có suy nghĩ gì để góp phần nhỏ bé của mình vào bảo vệ môi trường?

Hoặc giáo viên dùng sơ đồ, sử dụng câu hỏi gợi mở để phân tích, tổng hợp và rút ra được những kiến thức chính ở trong sơ đồ.

Ngoài ra GV có thể sử dụng tranh ảnh, băng hình, đĩa CD làm phương tiện trực quan, để minh hoạ cho HS những hiện tượng tàn phá môi trường, ô nhiễm môi trường như đốt phá rừng, nước thải, chất thải công nghiệp ở các thành phố…, hoặc những hậu quả do tàn phá môi trường gây ra như lũ lụt, hạn hán, bệnh tật… và cả những hành động bảo vệ môi trường như các khu rừng cấm, các công viên thiên nhiên, các công nghệ xử lí chất thải…

Tất cả những hình ảnh trực quan đó đều gây ấn tượng sâu sắc đối với HS, sẽ giúp các em nhận thức dễ dàng hơn vấn đề và đặc biệt nó tạo nên độ tin cậy cao trong giáo dục.

Sử dụng phương pháp mô tả

Ở nhiều bài, do đặc trưng của nội dung và thời gian, giáo viên vẫn có thể sử dụng phương pháp mô tả hoặc trích dẫn một đoạn thơ, đoạn văn, một bài viết về vấn đề môi trường để giúp học sinh khai thác những khía cạnh về môi trường có liên quan đến bài học.

Ví dụ: Khi dạy đến những bài về tự nhiên (khí hậu Việt Nam), giáo viên có thể liên hệ đến những hiện tượng “bất thường” của thời tiết và khí hậu mà có liên quan đến con người bằng cách như mô tả một trận lũ, lụt điển hình ở miền Trung, một trận lụt lịch sử ở thủ đô Hà Nội, hiện tượng đất lở, đá trượt điển hình xảy ra ở Tây Bắc nước ta hoặc ở một số nơi trên thế giới.

Hoặc khi dạy về những vấn đề kinh tế giáo viên có thể liên hệ đến vấn đề môi trường thông qua việc mô tả cảnh tượng ô nhiễm môi trường (do dầu khí) ở Vũng Tàu và ở một số nơi trên thế giới...

Từ đó giáo viên chốt kiến thức: Những hiện tượng trên là minh chứng cho sự biến đổ khí hậu toàn cầu mà do con người tác động tiêu cực vào thiên nhiên, mà Việt Nam chúng ta là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề trong thời kì hiện nay.

Do thời gian dành cho liên hệ những vấn đề môi trường rất ít, trong một số trường hợp giáo viên cũng có thể sử dụng tin tức, bài viết trong các sách báo, trên các phương tiện thông tin để đọc hoặc thông báo ngắn gọn cho học sinh nghe.

Chẳng hạn: Thông báo về những vụ cháy rừng lớn, nước sông Thị Vải đổi màu, có mùi hôi thối do ảnh hưởng nước thải công nghiệp chưa qua xử lí, đọc tin về những vụ nhiễm chất độc lớn do chất thải công nghiệp, hoặc do ăn phải nông sản có hàm lượng thuốc trừ sâu cao,… Sau đó, giáo viên nên yêu cầu hiểu tìm hiểu về nguyên nhân của những hiện tượng đó.

Sử dụng phương pháp đàm thoại, gợi mở

Khi liên hệ kiến thức bài học với vấn đề môi trường, phương pháp đàm thoại gợi mở được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất.

Để mang lại hiệu quả, hệ thống câu hỏi ở mức độ phát huy sự tìm tòi, sáng tạo của học sinh, câu hỏi cần gắn kiến thức môn học đã biết với kiến thức môi trường mà có thể học sinh chưa biết, đòi hỏi học sinh phải tìm tòi, suy nghĩ, vận dụng nhiều thao tác tư duy mới tìm ra câu trả lời.

Ví dụ, bài 32 - Các mùa khí hậu và thời tiết ở nước ta: Khi dạy, giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi để học sinh có thể liên hệ với thực tế môi trường như:

Khí hậu nước ta đã mang lại cho địa phương em những thuận lợi và khó khăn gì?

Làm thế nào để phát huy những thuận lợi và khắc phục những khó khăn đó ?

Hoặc bài 33 - Đặc điểm sông ngòi Việt Nam, khi dạy phân tích đặc điểm chung sông ngòi nước ta, giáo viên đưa ra một số tranh ảnh: Thủy điện Hòa Bình; bãi bồi đất mũi Cà Mau; gặt lúa mùa, đồng bằng sông Hồng và đặt câu hỏi để giáo dục môi trường như:

Đặc điểm của sông ngòi nước ta có những thuận lợi và khó khăn gì đối với sản xuất và đời sống?

Để khắc phục những khó khăn do sông ngòi đem lại thì cần có những biện pháp nào ?

Hoặc, khi dạy phần khai thác kinh tế và bảo vệ sự trong sạch của các dòng sông, giáo viên đặt một số câu hỏi như sau:

Hãy cho biết những nguyên nhân nào làm cho nước sông bị ô nhiễm? Liên hệ thưc trạng sông ở địa phương em ở địa phương em? Để nước sông không bị ô nhiễm chúng ta phải làm gì?

Sử dụng phương pháp thảo luận

Đây là phương pháp học sinh trao đổi xung quanh một vấn đề được đặt ra dưới dạng một câu hỏi, bài tập hay nhiệm vụ nhận thức... Trong phương pháp này HS giữ vai trò chủ động, tích cực.

Có nhiều hình thức thảo luận như: Thảo luận theo nhóm nhỏ, thảo luận cặp đôi, thảo luận chung toàn lớp.

Ví dụ, bài 17 - Ô nhiễm môi trường ở đới ôn hoà (Địa lí 7), GV treo một số tranh ảnh về ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước. HS quan sát ảnh và nhận xét theo yêu cầu của GV. Hình thức hoạt động là thảo luận theo nhóm. Các nhóm cùng trao đổi và điền vào phiếu học tập các nội dung theo yêu cầu.

GV chọn một số phiếu học tập đã hoàn thành dán lên bảng cho cả lớp theo dõi và xác định đúng sai để bổ sung ý kiến (nếu có). Các phiếu học tập còn lại GV thu phiếu để kiểm tra kết quả bài làm.

Sau đó GV chuẩn xác kiến thức theo bảng sau:


Nêu vài nhận xét


Ô nhiễm không khí


Nguyên nhân


- Khói bụi từ các nhà máy, động cơ giao thông và hoạt động sinh hoạt của con người đã thải vào không khí.


Hậu quả


- Tạo nên những trận mưa A xít, làm tăng hiệu ứng nhà kính, khiến cho Trái Đất nóng lên, khí hậu toàn cầu biến đổi, băng ở hai cực tan chảy, mực nước đại dương dâng cao.

- Khí thải còn làm thủng tầng ô dôn.


Biện pháp khắc phục


- Tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ bầu khí quyển của người dân.

- Trong sản xuất công nghiệp giảm thiểu lượng khí thải vào khí quyển bằng cách sử dụng kĩ thuật công nghệ cao.

- Trồng rừng và bảo vệ rừng...


Nguyên nhân, tác hại và biện pháp khắc phục của ô nhiễm nguồn nước


Nêu vài nhận xét


Ô nhiễm nước sông


Ô nhiễm nước biển


Nguyên nhân


- Hóa chất từ các nhà máy, xí nghiệp thải ra.
- Lượng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu dư thừa trên đồng ruộng, cùng với các chất thải nông nghiệp, sinh hoạt của con người ...


- Do váng dầu từ hoạt động khai thác và vận chuyển dầu.

- Các chất độc hại từ sông ngòi chảy ra biển...


Hậu quả


- Làm chết ngạt các sinh vật sống ở trong nước, thiếu nước sạch cho sản xuất và đồi sống.


- Làm chết ngạc các sinh vật sống ở trong nước biển.
- Gây ra hiện tượng thủy triều đen, thủy triều đỏ...


Biện pháp khắc phục


- Xử lí các nguồn nước thải trước khi đổ ra sông, biển.
- Tuyên truyền nâng cao ý thức bảo vệ sự trong sạch của nước sông, biển...


Phương pháp sử dụng bài tập vận dụng và bài tập nghiên cứu

Trong chương trình Địa lí có nhiều bài tập thực hành, để giáo dục môi trường giao viên có thể cho học sinh các bài tập vận dụng và bài tập nghiên cứu. Các bài tập này tốt nhất là nên gắn liền với môi trường ở địa phương, nơi học sinh đang sinh sống và học tập thì hiệu quả giáo dục sẽ cao hơn.

Ví dụ: Cho các bài tập tìm hiểu về môi trường tự nhiên ở địa phương như: Tìm hiểu về các danh lam, thắng cảnh, tìm hiểu về các tài nguyên thiên nhiên, tìm hiểu về mùa mưa, về chế độ nước sông... của địa phương.

Đặc biệt GV nên hướng dẫn HS chú ý vấn đề ảnh hưởng của các yếu tố, vấn đề khai thác và sử dụng, các biện pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực.

Cho các bài tập nghiên cứu về tình hình môi trường của địa phương: Vấn đề ô nhiễm môi trường, vấn đề cải tạo môi trường ở địa phương, đăc biệt GV nên hướng dẫn HS tìm hiểu nguyên nhân của vấn đề ô nhiễm, và có thể đề xuất những biện pháp khắc phục (Giáo dục môi trường ở Hà Nội).

Với bài tập nghiên cứu, cô Ngân cho rằng, muốn thực hiện tốt một bài tập nghiên cứu, GV cần phải chú ý đến các vấn đề sau:

Bài tập đưa ra phải rõ ràng, tránh nhầm lẫn; mục đích, yêu cầu của nghiên cứu phải rõ ràng, dễ hiểu. Quá trình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu cơ bản phải dựa trên những nguyên tắc và nguyên lí chung, nhưng đồng thời phải dành chỗ sáng tạo cho HS. Đặc biệt là phải rút ra được những kết luận và bài học điển hình.

Để tiến hành và nghiên cứu, học sinh phải quan sát tình hình môi trường địa phương, thu thập các tài liệu liên quan, tiến hành khảo sát trên thực địa...

Thông qua hoạt động này, học sinh rèn luyện được một số kĩ năng địa lí cơ bản, phát triển được năng lực tư duy và năng lực thực hành và đặc biệt giúp các em hiểu rõ về tình hình môi trường địa phương làm cơ sở tốt để sau này các em trở thành những người lao động có ích cho quê hương.

Phương pháp dạy học giải quyết vấn đề

Đây là phương pháp trong đó giáo viên đặt ra trước học sinh một hay một hệ thống vấn đề nhận thức, đưa học sinh vào tình huống có vấn đề. Sau đó, giáo viên phối hợp cùng học sinh (hướng dẫn học sinh) giải quyết vấn đề, đi đến những kết luận cần thiết trong nội dung học tập.

Trong chương trình dạy học Địa lí có thể giáo dục môi trường cho HS qua phương pháp này cụ thể qua ví dụ sau.

Khi dạy bài “Các hệ thống sông lớn ở nước ta” Địa lí 8, đến phần những thuận lợi và khó khăn do lũ mang lại ở đồng bằng sông Cửu Long, sau khi GV cho HS nêu những thuận lợi và khó khăn do lũ mang lại ở đồng bằng song Cửu Long, GV có thể nêu câu hỏi sau:

Lũ mang lại rất nhiều khó khăn cho đồng bằng song Cửu Long, nhưng tại sao ở đồng bằng song Cửu Long lại có chủ trương “sống chung với lũ”. Sauk hi HS giải quyết được vấn đề vừa nêu, GV đặt tiếp câu hỏi: ? chúng ta cần có những biện pháp nào để hạn chế những khó khăn do lũ gây ra.

Phương pháp thu thập và xử lí nguồn tài liệu

Đây được xem như là một phương pháp đặc trưng của môn Địa lí, vì môn trường luôn luôn thay đổi, biến động theo không gian và thời gian nên nhiều khi những kiến thức trong SGK chưa đủ và mang tính cập nhật nên việc thu thập và xử lí thong tin là rất cẩn thiết.

Ví dụ: Khi dạy bài “Đặc điểm khí hậu Việt Nam” sau khi học xong bài này, GV có thể cho HS về nhà (lên mạng, sách, báo, tivi ...) tìm các sự kiện, số liệu nói lên tính thất thất thường của khí hậu nước ta (các tư liệu, số liệu về các trận hạn hán, lũ lụt, sương muối ...).

Hoặc khi dạy về những vấn đề kinh tế GV cũng có thể liên hệ đến vấn đề MT thông qua việc yêu cầu HS thư thập những thông tin, số liệu về môi trường như ô nhiễm dầu khí ở Vũng Tàu và ở một số nơi trên thế giới…

Phương pháp thực địa thông qua hoạt động ngoại khoá

Các hoạt động ngoại khóa với nhiều hình thức phong phú khác nhau, diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau, đòi hỏi các cách thức hoạt động khác nhau sẽ rèn luyện học sinh đức tính thích nghi, chủ động, năng động và qua đó rèn luyện kỹ năng Địa lí (kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp...).

Hoạt động ngoại khóa đồng thời rèn luyện học sinh kỹ năng sống (kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin; kỹ năng giao tiếp, ứng xử; kỹ năng làm việc theo nhóm; kỹ năng làm chủ bản thân...)
Nguồn: giaoducthoidai.vn
 

Bình luận bằng Facebook

Top