Ông Tanaka dẫn chúng tôi về lại sân ga, nơi các nông dân và các bà già dang chuẩn bị mang đồ đạc để lên tàu. Rồi tàu dừng lại trước mặt chúng tôi. Ông Bekku, súng sính trong chiếc kimono cứng ngắc, chen vào giữa Satsu và tôi, ông ta nắm khuỷu tay chúng tôi dẫn lên tàu. Tôi nghe ông Tanaka nói cái gì đấy, nhưng tôi quá hoang mang buồn chán nên tôi không rõ ông ta nói gì. Tôi chỉ nghe lóang thóang bên tai những câu như:
Mata yo! – Hẹn ngày tái ngộ!
Hay là Mattyo! – Khoan đã!
Hay là như Ma..deyo! – Xin chia tay!
Khi chúng tôi nhìn ra cửa sổ toa tàu, tôi thấy ông Tanaka đi đến xe ngựa của ông và bà Loay Hoay lau hai tay lên áo kimono của mình.
Một lát sau chị tôi nói:
- Em Chiyo!
Tôi úp mặt vào lòng bàn tay, thú thật là tôi quá đau khổ đến độ muốn nhảy qua cửa sổ tàu để chạy trốn nếu tôi nhảy được. Vì chị tôi gọi tên tôi như thế, nên tôi biết chị đã quá ngao ngán trong lòng.
- Em có biết chúng ta đi đâu không? Chị hỏi.
Tôi nghĩ chị muốn nghe tôi trả lời biết hay không. Có lẽ đối với chị việc chúng tôi đến đâu không thành vấn đề - vì người ta đã thu xếp đưa chúng tôi đi. Nhưng dĩ nhiên chúng tôi không biết chúng tôi đi đâu. Tôi bèn hỏi cái ông loắt choắt, ông Bekku, nhưng ông ta không thèm đáp. Ông ta cứ nhìn vào chị Satsu như thể trước đó ông ta chưa bao giờ thấy người nào như chị. Cuối cùng ông ta nhăn mặt với vẻ ghê tởm rồi nói:
- Đồ cá! Hai đứa bay hôi tanh quá!
Ông ta lấy trong cái xách có dây rút ra một cái lược rồi cào mạnh lên tóc chị tôi. Tôi nghĩ chắc chị đau lắm. Nhưng tôi đoán khi nhìn cảnh vật trôi qua ngòai cửa sổ toa tàu có lẽ chị tôi còn đau đớn hơn nhiều. Bỗng miệng chị Satsu méo xệch như miệng một đứa bé, rồi chị òa khóc. Ngay cả khi chị ấy đánh tôi, nạt nộ tôi, tôi cũng không cảm thấy đau đớn bằng khi thấy mặt chị ấy run lên như thế. Tất cả đều do lỗi của tôi mà ra. Một bà già nhà quê có hàm răng nhô ra như răng chó, đem đến cho Satsu một củ cà rốt, sau đó hỏi chị đi đâu.
- Đi Kyoto – ông Bekku trả lời.
Khi nghĩ thế, tôi quá đỗi lo sợ, không dám nhìn thẳng vào mặt chị Satsu nữa. Ngay thị trấn Senzuru thôi cũng đã qúa là xa xôi đôi với tôi rồi. Còn Kyoto, tôi xem đấy như là ngọai quốc, như Hồng Kông, thậm chí như New York, nơi có lần tôi nghe ông bác sĩ Miura nói đến. Theo chỗ tôi biết thì Kyoto người ta nuôi trẻ con đế cho chó ăn thịt.
Chúng tôi ngồi yên trên tàu nhiều giờ liền không ăn uống gì hết. Tôi thấy ông Bekku lấy trong túi xách ra một gói lá sen, ông ta mở ngọn lá, trong lá là một vắt cơm lấm tấm muối mè. Tôi nhìn ông ta, nhưng mấy ngón tay xương xẩu của ông ta đút vắt cơm vào miệng, không buồn nhìn đến tôi. Tôi cảm thấy chưa bao giờ ngán ngẩm hơn lúc ấy. Cuối cùng chúng tôi xuống tàu tại một thị trấn lớn, tôi nghĩ đấy là Kyoto. Nhưng một lát sau, một chiếc tàu khác chạy vào sân ga, và chúng tôi lại lên tàu. Chếic tàu này mới đưa chúng tôi đến Kyoto. Chiếc tàu này đông đúc hơn chiếc tàu trước nhiều, cho nên chúng tôi phải đứng. Khi tàu đến nơi, trời gần tối, tôi cảm thấy người đau nhừ như tảng đá bị nước suối dội xuống suốt ngày.
Khi tàu đến gần ga Kyoto, tôi chỉ thấy thành phố một tí thôi. Nhưng tôi ngạc nhiên nhìn những mái nhà chạy dài đến tận chân các ngọn đồi xa xa. Tôi không ngờ thành phố to lớn đến như thế. Ngay đến bây giờ, mỗi lần ngồi trên tàu nhìn ra cảnh đường phố và nhà cửa, là tôi lại nhớ đến nỗi trống rỗng và lo sợ đến run người của tôi vào ngày đâu tiên tôi rời khỏi quê nhà ấy.
Ngược lại vào khỏang năm 1930, vẫn còn một số lớn xe kéo họat động ở Kyoto. Thật vậy, khi ấy có nhiều chiếc xe kéo đậu sắp hàng trước mặt ga, tôi nghĩ nếu mọi người không dùng xe kéo thì chắc không đi đâu được – ý nghĩ này thực ra cũng không phải là quá đáng. Có lẽ có khỏang 15 đến 20 chiếc đang gác càng xe trên mặt đất, còn các phu xe thì ngồi chò hỏ bên cạnh xe họ, người hút thuốc, kẻ ăn cơm; hai phu xe nằm cuộn người ngủ ngay trên mặt đất dơ dáy.
Ông Bekku lại nắm hai cùi tay chị em tôi dẫn đi như thể chúng tôi là hai xô nước ông ta mang từ giếng vào. Có lẽ ông ta sợ nếu thả chúng tôi ra là chúng tôi chạy trốn mất. nhưng làm sao chúng tôi chạy được. Bất cứ ông ta dẫn chúng tôi đi đâu, chúng tôi cũng phải lẽo đẽo đi theo, vì đường xá và nhà cửa ở đây mênh mông bát ngát, quá xa lạ với chúng tôi.
Chúng tôi leo lên một chiếc xe kéo, ông Bekku ngồi chễm chệ ở giữa, hai chúng tôi ở hai bên. Tôi thấy ông ta ốm nhom trong chiếc kimono. Khi người phu xe nâng hai càng xe lên, chúng tôi ngã ngửa ra phía sau và ông Bekku nói:
- Chạy đến Tominago-cho, ở khu Gion.
Nghười kéo xe không nói gì hết, chỉ việc ra sức kéo mạnh chiếc xe rồi bắt đầu chạy đi. Sau khi đi được một hai khu phố, tôi thu hết can đảm hỏi ông Bekku:
- Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết chúng tôi đi đâu được không?
Có vẻ như ông ta không muốn trả lời, nhưng một lát sau ông ta đáp:
- Đi đến nhà mới của tụi bây.
Nghe thế, mắt tôi đẫm lệ. Tôi nghe chị Satsu ngồi bên kia bật khóc, và tôi cũng sắp sửa khóc thì bỗng ông Bekku đánh chị, chị thở hồng hộc. Tôi liền cắn môi để cho khói khóc thêm, tôi cắn môi mạnh đến độ tôi nghĩ nước mắt chảy ra chắc sẽ dừng lại ở hai má
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi rẽ vào một đại lộ có vẻ rộng như cả làng tôi ở Yoroido. Tôi không thấy được phía bên kia đường, vi đường phố ta6’p nập, nào người, nào xe đạp, xe hơi và xe tải. Chưa bao giờ tôi thấy xe hơi. Có thấy chăng là thấy trên ảnh, nhưng tôi nhớ khi ấy tôi hết sức kinh ngạc…là vì cái cách mọi người nhìn chúng tôi làm cho tôi quá đỗi lo sợ, vì họ có vẻ “độc ác”, như thể họ sinh ra là để hành hạ người khác hơn là để giúp đỡ. Tôi cảm thấy đau đớn tận tâm can. Xe tải chạy rầm rầm qua gần sát bên chúng tôi, tôi ngửi được cả mùi cao su của vỏ xe tóat ra. Tôi nghe tiếng kin kít đinh tai nhức óc, tôi quay qua nhìn , hóa ra đấy là chiếc tàu điện chạy trên đường ray ngay giữa đại lộ.
Khi màn đêm buông xuống quanh tôi, tôi mới thấy khiếp sợ, nhưng chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy kinh ngạc như bấy giờ, khi tôi nhìn thấy đèn sáng khắp đường phố. Chưa bao giờ tôi thấy đèn điện ngọai trừ lần ăn cơm ở nhà ông Tanaka. Ở đây, đèn sáng khắp nơii, các cửa sổ trên lầu cũng như phía dưới các tòa cao ốc sáng choang, người đi trên các vỉa hè cũng có đèn chiếu sáng. Tôi có thể thấy rõ mọi vật từ xa trên đại lộ. Chúng tôi rẽ vào con đường khác, và lân đầu tiên tôi thấy Nhà hát Minamiza nằm phía bên kia một chiếc cầu ở trước mặt chúng tôi. Mái nhà nằm nghiêng đồ sộ, tôi thấy như một tòa lâu đài.
Cuối cùng chiếc xe kéo rẽ vào một con đường nhỏ hai bên tòan nhà gỗ. Nhà cửa ở đây nằm san sát vào nhau trông như thể chúng có cùng một mặt tiền – điều này một lần nữa làm cho tôi có cảm giác đã bị lạc đường. Tôi thấy những phụ nữ mặt kimono hấp tấp đi trên con đường nhỏ. Tôi thấy họ rất lịch sự, nhưng về sau này tôi biết họ hầu hết đều là tôi tớ trong nhà.
Khi xe chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà, ông Bekku ra lệnh cho tôi xuống xe. Ông ta bước xuống sau tôi, và rồi tuồng như cảnh đau đớn trong ngày chưa đủ, sự tệ hại nhất còn xảy ra tiếp cho chúng tôi nữa. Vì khi chị Satsu định xuống xe, thì ông Bekku quay lại, đưa tay đẩy chị lui vào trong xe. Ông ta nói với chị:
- Mày ngồi lại đấy. Mày đi đến chỗ khác.
Tôi nhìn Satsu và Satsu nhìn tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên chúng tôi hiểu tâm trạng của nhau hơn bao giờ hết. Nhưng việc này chỉ diễn ra một lát, vì sau đó mắt tôi nhòa lệ đến nỗi tôi không thấy gì hết. Tôi cảm thấy mình bị ông Bekku lôi đi, tôi nghe giọng nói của đàn bà nói cười với nhau rất huyên náo. Tôi bị ông Bekku kéo manh như muốn té xuống đường thì bỗng tôi thấy chị Satsu há hốc mồm nhìn cảnh tượng hiện ra ở phia sau tôi trên lối vào.
Tôi đang ở trên một lối đi nhỏ hẹp vào nhà, một bên có cái giếng nước trông có vẻ đã lâu đời và bên kia có vài cái cây. Ông Bekku lôi tôi vào nhà, và bây giờ ông ta phải kéo xệch tôi đi. Trên bậc thềm nhà, một phụ nữ rất đẹp đang đứng ở đấy, cô ta vừa xỏ chân vào đôi giày sơn mài, trên người mặc một chiếc áo kimono thật đẹp chưa bao giờ tôi được thấy. Chiếc kimono của nàng geisha có bộ răng hô ở thị trấn Senzuru của ông Tanaka đã làm cho tôi lác mắt rồi, nhưng cái áo này lại còn đẹp hơn rất nhiều. Cái áo này có màu xanh nước biển với những đường màu trắng ngà uốn lượn như dòng nước trong một con suối. Trong dòng nước, có một con cá hồi màu bạc óng ánh, và trên mặt nước, hễ nơi nào có những chiếc lá xanh lục mềm mại từ một thân cây chạm đến, là ở đấy được viền màu vàng. Tôi nghĩ chiếc áo được may bằng lụa rất mịn và chiếc khăn quàng quanh bụng cũng thế, khăn được thêu màu lục nhạt và vàng. Và không phải cái áo là vật duy nhất trên người cô ta đặc biệt đáng chú ý, mà mặt cô ta được trát phấn trắng tóat, như làn mâykhi được ánh mặt trời chiếu vào. Mái tóc được chải thành từng lọn theo kiểu tân thời, đen lấp lánh như những khối sơn mài, và được trang hòang bằng những thứ trang sức chạm trổ từ hổ phách, với một thanh ngang có đính nhiều chuỗi bằng bạc nhỏ li ti, mỗi khi cô ta di chuyển, những chuỗi bạc này đung đưa lấp lánh.
Đây là lần gặp mặt Hatsumono đầu tiên của tôi. Lúc ấy, cô ta là na1ng geisha nổi tiếng nhất ở vùng Gion này; nhưng dĩ nhiên khi ấy tôi không biết tí gì về cô ta hết. Cô ta nhỏ nhắn, kiểu tóc cô ta bới cao, nhưng cô ta đứng cũng không quá vai ông Bekku. Tôi quá kinh ngạc khi thấy cô ta, đến nỗi tôi quên hết cả phép lịch sự - mặc dù tôi chưa thấu hiểu thế nào là phép lịch sự - nên tôi cứ nhìn đăm đăm vào mặt cô ta. Cô ta mỉm cười nhìn tôi nhưng thái độ không được thân ái. Rồi bỗng cô ta nói:
- Ông Bekku, ông dẹp đồ rác rưởi đi được không? Tôi muốn đi ra đường đây.
Trên cửa ngõ không có rác rưởi gì hết; cô ta muốn ám chỉ tôi. Ông Bekku trả lời ông ta nghĩ cô Hatsumono có đủ chỗ để đi ra.
- Ông mới quan tâm đến việc đên gần bên nó – Hatsumono nói – Còn tôi, khi tôi thấy đồ rác rưởi bên này đường là tôi đi qua bên kia đường.
Bỗng một bà già hiện ra sau lưng cô ta trên ngưỡng cửa, người bà ta cao và thẳng đuột như cây tre, bà ta nói:
- Này cô Hatsumono, không biết có ai chịu đựng nổi với cô không.
Nhưng nói thì nói, bà ta vẫn ra dấu cho ông Bekku lôi tôi ra lại ngòai đường, và ông ta làm theo lời bà. Sau đó, bà ta bước xuống cửa ngỏ, bước đi rất ngượng ngập – vì một bên mông bà ta nhô ra khiến cho bà đi đưng khó khăn – rồi bà đến cái tủ nhỏ gắn trên vách. Bà ta lấy trong tủ ra vật gì đấy mà tôi nghĩ là một viên đá lửa và một viên đá có hình chữ nhật giống như cục đá mài của ngư dân, rồi bà ta đến sau lưng Hatsumono, đánh viên đá lửa vào cục đá, làm tóe ra một đốm lửa văng vào lưng của cô ta. Khi ấy tôi không hiểu bà ta làm như thế để làm gì, nhưng sau đó tôi mới biết giới geisha còn mê tín dị đoan hơn cả ngư dân nữa. Một nàng geisha mỗi khi đi ra ngòai vào buổi tối, là phải có ai đấy đánh đá lửa vào lưng họ để cầu may.
Sau đó, Hatsumono bước đi, những bước ngắn như thể nàng lướt theo tà áo kimono nhẹ rung. Lúc ấy tôi chưa biết cô ta là geisha, vì trông cô sáng giá hơn cái cô geisha ở Senzuru mà tôi đã thấy trước đây mấy tuần. Tôi cứ nghĩ cô ta là diễn viên sân khấu. Tất cả chúng tôi đều nhìn cô ta lướt đi một lát, rồi ông Bekku giao tôi cho bà già ở nơi cửa ngỏ. Ông ta quay lại chiếc xe kéo với chị tôi, và người phu xe nhấc càng lên. Tôi liền ngồi gục xuống trên nền cửa ngỏ mà khóc nức nở, nên không thấy họ ra đi lúc nào.
Hẳn là bà gìa thương hại tôi, vì tôi ngồi khóc nức nở đau khổ ở đấy một hồi lâu mà không ai đụng đến tôi.
Thậm chí tôi còn nghe bà biểu một chị giúp việc trong nhà im lặng khi chị đến để nói gì đó với bà ta. Cuối cùng bà ta đỡ tôi đứng dậy, lấy khăn trong cánh tay áo kimono màu xám giản dị, lau mặt cho tôi.
- Thôi thôi cháu ơi, đừng lo sợ làm gì, không ai ăn thịt cháu đâu mà sợ.
Bà ta nói với một giọng kỳ lạ giống như giọng của ông Bekku và Hatsumono. Giọng nghe rất khác với giọng tôi nghe người trong làng tôi nói, cho nên tôi phải cố gắnh lắm mới hiểu được. nhưng dù sao lời lẽ của bà nghe cũng thân ái nhất so với những người đã nói với tôi ngày hôm ấy, cho nên tôi nghĩ là phải làm theo lời khuyên của bà ta. Bà biểu tôi gọi bà bằng dì. Rồi bà nhìn vào mặt tôi đăm đăm và nói bằng một giọng khàn khàn:
- Trời đất! Cặp mắt mớii tuyệt làm sao! Cháu có biết cháu đẹp không? Thế nào Mẹ cũng khoái cho mà xem!
Tôi liền nghĩ chắc là mẹ của bà ta, và chắc bà ấy phải già lắm, vì bà Dì tóc đã bạc nhiều, chỉ thưa thớt một ít còn đen, mái tóc buộc cứng ra phía sau gáy.
Bà Dì dẫn tôi vào cửa, tôi thấy trước mắt là một hành lang bằng đất chạy qua giữa hai ngôi nhà rộng rãi nằm gần nhau, hành lang chạy dài cho đến cái sân sau. Một ngôi nhà nhỏ bằng ngôi nhà của tôi ở Yoroido, có hai phòng, nền nhà bằng đất, sau đó tôi mới biết đây là khu gia nhân ở. Ngôi nhà kia nhỏ hơn nhưng đẹp, nền nhà xây trên những tảng đá lớn hở nhau, một con mèo có thể bò qua được. Hành lang đi qua giữa hai ngôi nhà để lộ thiên, có thể nhìn thấy bầu trời đen ở trên đầu, cảnh tượng này khiến cho tôi có cảm giác là người ta đang ở trong một ngôi làng thu nhỏ hơn là trong một ngôi nhà – nhất là khi tôi nhìn thấy có nhiều ngôi nhà nhỏ bằng gỗ khác nữa nằm ở phía cuối sân. Khi ấy tôi không biết, nhưng đấy là kiểu nhà điển hình được người ta xây cất ở Kyoto. Những ngôi nhà ở trong sân, khi mớii nhìn, tôi tưởng đấy là một nhóm nhà nhỏ khác nhau, nhưng đấy chỉ là nhà nhỏ dùng làm phòng vệ sinh và kho hai tầng có thang ở bên ngòai để leo lên tầng trên. Tòan bộ ngôi nhà chiếm một diện tích nhỏ hơn ngôi nhà của ông Tanaka tại vùng quê mà chỉ có tám người ở. Và bấy giờ có tôi nữa là chín người.
Sau khi đã nhìn sơ qua cách bố trí các nơi trong nhà, tôi mớii nhìn đến ngôi nhà chính đẹp đẽ. Ở Yoroido, những ngôi nhà gỗ thường có màu xám chứ không có màu nâu, và bị gió biển làm cho gỗ đảo mục. Nhưng ở đây, nền nhà lát gỗ và các xà gỗ đều sáng bóng dưới ánh đèn điện vàng vọt. Những cánh cửa lùa mở ra tiền sảnh đều có che màn giấy, và một cái thang cũng nằm ở tiền sảnh bắt thẳng lên tầng trên. Một cánh cửa lùa đang mở, nên tôi có thể nhìn thấy trong nhà có một cái tủ gõ với bàn thờ Phật. Những căn phòng đẹp đẽ trong nhà này dành cho những người trong gia đình ở - kể cả Hatsumono, mặc dù cô ta không phải là thành phần trong gia đình, điều này sau đó tôi mới biết. Khi các thành viên trong gia đình muốn đi ra sân sau, họ không đi theo hành lang đất như gia nhân, mà họ có một hành lang nhỏ bằng gỗ đánh bóng chạy dọc theo một bên hông nhà. Nhà lại còn có phòng vệ sinh riêng biệt – phòng ở bên trên dành cho người trong nhà, còn phòng phía dưới dành cho gia nhân.
Tôi nghĩ chắc phải mất một vài ngày mớii biết hết khắp nơii trong nhà được. Trong khi bà Dì đi vào nhà bếp để nói chuyện với ai đấy, tôi đứng trên hành lang nhìn quanh, lòng phân vân không biết nơi này là nơi nào, tôi cảm thấy lo sợ vô cùng. Tiếng bà Dì nói với ai đấy trong bếp nghe ồ ồ. Cuối cùng có người đi ra. Người đi ra là một cô gái cỡ bằng tuổi tôi, trên tay xách một xô gỗ thật nặng đến nỗi nước bắn tung tóe trên nền đất. Thân hình cô ta nhỏ, nhưng khuôn mặt thì mập và tròn vành vạnh, trông như quả dưa hấu cắm trên cái que. Cô ta ráng sức để xách cái xô, lưỡi thè ra ngòai miệng như cọng lá thòi ra trên chóp trái bí ngô. Sau đó tôi nhận ra đấy là thói quen của cô ta. Cô ta thè lưỡi khi trộn cơm hoặc múc canh vào tô, hay thậm chí khi buộc dải áo. Và mặt cô ta mập ú, mêm mại, cái lưỡi thè ra cong lên như cọng bí, cho nên chỉ vài hôm sau tôi đã đặt cho cô ta biệt danh là “Bí Ngô”, và cái tên này liền được mọi người dùng để gọi cô ta – thậm chí nhiều năm về sau, khi cô ta đã trở thành geisha ở Gion, khách của cô cũng gọi thế.
Khi Bí Ngô để cái xô xuống bên cạnh tôi, cô ta thụt lưỡi vào,vừa nhìn tôi vừa đưa tay hất một dúm tóc xòa ra sau tai. Cô ta nhìn lên nhìn xuống người tôi. Tôi tưởng cô ta sắp nói gì, nhưng không, cô ta cứ nhìn như thể cô ta suy nghĩ có nên cắn tôi không. Quả vậy, trông cô ta có vẻ như đang đói. Nhưng cuối cùng cô ta nghiêng người gần bên tôi hỏi nhỏ:
- Bạn từ đâu đến đây?
Tôi nghĩ không nên cho cô ta biết tôi từ Yoroido đến đây, vì giọng cô ta tôi nghe cũng xa lạ như mọi người khác, tôi tin chắc cô ta không biết tên làng tôi được. Cho nên tôi chỉ đáp tôi vừa mớii đến.
- Mình cứ ngỡ không đời nào mình gặp một đứa con gái nào bằng tuổi mình ở đây – cô ta nói – Nhưng có phải cặp mắt bạn đã đưa bạn đến đây không?
Ngay khi ấy bà Dì từ trong bếp bước ra, bà đuổi Bi Ngô đi rồi xách xô nước lên và lấy miếng vả rẻo, bà dẫn tôi đi ra sân sau. Đường đi trên sân có lat đá, đá đóng meo trông rất đẹp. Đường đá chạy dài ra tận phía sau nhà kho và khi đi qua phòng vệ sinh trong căn nhà nhỏ nằm bên cạnh, mùi hôi thốí bốc lên nồng nặc. Bà Dì bảo tôi cởi áo quần ra. Tôi sợ bà ta sẽ làm cái công việc như bà Loay Hoay đã làm với tôi trước đây, nhưng không, bà ta chỉ xối nước lên vai tôi rồi lấy miếng vải rẻo kỳ cọ thân hình tôi. Xong xuôi, bà đưa cho tôi cái áo dài, cái áo may bằng vải thô có hình trang trí sơ sài màu xanh đậm, nhưng tôi thấy đây là cái áo đẹp hơn bất kỳ thứ gì tôi đã mặc trước đây. Một bà già mà sau đó tôi biết là bà đầu bếp ra đứng ở hành lang với nhiều chị ở đã lớn tuổi để nhìn tôi. Bà Dì nói họ sẽ có khối ngày giờ để nhìn tôi, và bảo họ hãy đi làm việc đi.
Mata yo! – Hẹn ngày tái ngộ!
Hay là Mattyo! – Khoan đã!
Hay là như Ma..deyo! – Xin chia tay!
Khi chúng tôi nhìn ra cửa sổ toa tàu, tôi thấy ông Tanaka đi đến xe ngựa của ông và bà Loay Hoay lau hai tay lên áo kimono của mình.
Một lát sau chị tôi nói:
- Em Chiyo!
Tôi úp mặt vào lòng bàn tay, thú thật là tôi quá đau khổ đến độ muốn nhảy qua cửa sổ tàu để chạy trốn nếu tôi nhảy được. Vì chị tôi gọi tên tôi như thế, nên tôi biết chị đã quá ngao ngán trong lòng.
- Em có biết chúng ta đi đâu không? Chị hỏi.
Tôi nghĩ chị muốn nghe tôi trả lời biết hay không. Có lẽ đối với chị việc chúng tôi đến đâu không thành vấn đề - vì người ta đã thu xếp đưa chúng tôi đi. Nhưng dĩ nhiên chúng tôi không biết chúng tôi đi đâu. Tôi bèn hỏi cái ông loắt choắt, ông Bekku, nhưng ông ta không thèm đáp. Ông ta cứ nhìn vào chị Satsu như thể trước đó ông ta chưa bao giờ thấy người nào như chị. Cuối cùng ông ta nhăn mặt với vẻ ghê tởm rồi nói:
- Đồ cá! Hai đứa bay hôi tanh quá!
Ông ta lấy trong cái xách có dây rút ra một cái lược rồi cào mạnh lên tóc chị tôi. Tôi nghĩ chắc chị đau lắm. Nhưng tôi đoán khi nhìn cảnh vật trôi qua ngòai cửa sổ toa tàu có lẽ chị tôi còn đau đớn hơn nhiều. Bỗng miệng chị Satsu méo xệch như miệng một đứa bé, rồi chị òa khóc. Ngay cả khi chị ấy đánh tôi, nạt nộ tôi, tôi cũng không cảm thấy đau đớn bằng khi thấy mặt chị ấy run lên như thế. Tất cả đều do lỗi của tôi mà ra. Một bà già nhà quê có hàm răng nhô ra như răng chó, đem đến cho Satsu một củ cà rốt, sau đó hỏi chị đi đâu.
- Đi Kyoto – ông Bekku trả lời.
Khi nghĩ thế, tôi quá đỗi lo sợ, không dám nhìn thẳng vào mặt chị Satsu nữa. Ngay thị trấn Senzuru thôi cũng đã qúa là xa xôi đôi với tôi rồi. Còn Kyoto, tôi xem đấy như là ngọai quốc, như Hồng Kông, thậm chí như New York, nơi có lần tôi nghe ông bác sĩ Miura nói đến. Theo chỗ tôi biết thì Kyoto người ta nuôi trẻ con đế cho chó ăn thịt.
Chúng tôi ngồi yên trên tàu nhiều giờ liền không ăn uống gì hết. Tôi thấy ông Bekku lấy trong túi xách ra một gói lá sen, ông ta mở ngọn lá, trong lá là một vắt cơm lấm tấm muối mè. Tôi nhìn ông ta, nhưng mấy ngón tay xương xẩu của ông ta đút vắt cơm vào miệng, không buồn nhìn đến tôi. Tôi cảm thấy chưa bao giờ ngán ngẩm hơn lúc ấy. Cuối cùng chúng tôi xuống tàu tại một thị trấn lớn, tôi nghĩ đấy là Kyoto. Nhưng một lát sau, một chiếc tàu khác chạy vào sân ga, và chúng tôi lại lên tàu. Chếic tàu này mới đưa chúng tôi đến Kyoto. Chiếc tàu này đông đúc hơn chiếc tàu trước nhiều, cho nên chúng tôi phải đứng. Khi tàu đến nơi, trời gần tối, tôi cảm thấy người đau nhừ như tảng đá bị nước suối dội xuống suốt ngày.
Khi tàu đến gần ga Kyoto, tôi chỉ thấy thành phố một tí thôi. Nhưng tôi ngạc nhiên nhìn những mái nhà chạy dài đến tận chân các ngọn đồi xa xa. Tôi không ngờ thành phố to lớn đến như thế. Ngay đến bây giờ, mỗi lần ngồi trên tàu nhìn ra cảnh đường phố và nhà cửa, là tôi lại nhớ đến nỗi trống rỗng và lo sợ đến run người của tôi vào ngày đâu tiên tôi rời khỏi quê nhà ấy.
Ngược lại vào khỏang năm 1930, vẫn còn một số lớn xe kéo họat động ở Kyoto. Thật vậy, khi ấy có nhiều chiếc xe kéo đậu sắp hàng trước mặt ga, tôi nghĩ nếu mọi người không dùng xe kéo thì chắc không đi đâu được – ý nghĩ này thực ra cũng không phải là quá đáng. Có lẽ có khỏang 15 đến 20 chiếc đang gác càng xe trên mặt đất, còn các phu xe thì ngồi chò hỏ bên cạnh xe họ, người hút thuốc, kẻ ăn cơm; hai phu xe nằm cuộn người ngủ ngay trên mặt đất dơ dáy.
Ông Bekku lại nắm hai cùi tay chị em tôi dẫn đi như thể chúng tôi là hai xô nước ông ta mang từ giếng vào. Có lẽ ông ta sợ nếu thả chúng tôi ra là chúng tôi chạy trốn mất. nhưng làm sao chúng tôi chạy được. Bất cứ ông ta dẫn chúng tôi đi đâu, chúng tôi cũng phải lẽo đẽo đi theo, vì đường xá và nhà cửa ở đây mênh mông bát ngát, quá xa lạ với chúng tôi.
Chúng tôi leo lên một chiếc xe kéo, ông Bekku ngồi chễm chệ ở giữa, hai chúng tôi ở hai bên. Tôi thấy ông ta ốm nhom trong chiếc kimono. Khi người phu xe nâng hai càng xe lên, chúng tôi ngã ngửa ra phía sau và ông Bekku nói:
- Chạy đến Tominago-cho, ở khu Gion.
Nghười kéo xe không nói gì hết, chỉ việc ra sức kéo mạnh chiếc xe rồi bắt đầu chạy đi. Sau khi đi được một hai khu phố, tôi thu hết can đảm hỏi ông Bekku:
- Xin ông vui lòng cho chúng tôi biết chúng tôi đi đâu được không?
Có vẻ như ông ta không muốn trả lời, nhưng một lát sau ông ta đáp:
- Đi đến nhà mới của tụi bây.
Nghe thế, mắt tôi đẫm lệ. Tôi nghe chị Satsu ngồi bên kia bật khóc, và tôi cũng sắp sửa khóc thì bỗng ông Bekku đánh chị, chị thở hồng hộc. Tôi liền cắn môi để cho khói khóc thêm, tôi cắn môi mạnh đến độ tôi nghĩ nước mắt chảy ra chắc sẽ dừng lại ở hai má
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi rẽ vào một đại lộ có vẻ rộng như cả làng tôi ở Yoroido. Tôi không thấy được phía bên kia đường, vi đường phố ta6’p nập, nào người, nào xe đạp, xe hơi và xe tải. Chưa bao giờ tôi thấy xe hơi. Có thấy chăng là thấy trên ảnh, nhưng tôi nhớ khi ấy tôi hết sức kinh ngạc…là vì cái cách mọi người nhìn chúng tôi làm cho tôi quá đỗi lo sợ, vì họ có vẻ “độc ác”, như thể họ sinh ra là để hành hạ người khác hơn là để giúp đỡ. Tôi cảm thấy đau đớn tận tâm can. Xe tải chạy rầm rầm qua gần sát bên chúng tôi, tôi ngửi được cả mùi cao su của vỏ xe tóat ra. Tôi nghe tiếng kin kít đinh tai nhức óc, tôi quay qua nhìn , hóa ra đấy là chiếc tàu điện chạy trên đường ray ngay giữa đại lộ.
Khi màn đêm buông xuống quanh tôi, tôi mới thấy khiếp sợ, nhưng chưa bao giờ trong đời tôi cảm thấy kinh ngạc như bấy giờ, khi tôi nhìn thấy đèn sáng khắp đường phố. Chưa bao giờ tôi thấy đèn điện ngọai trừ lần ăn cơm ở nhà ông Tanaka. Ở đây, đèn sáng khắp nơii, các cửa sổ trên lầu cũng như phía dưới các tòa cao ốc sáng choang, người đi trên các vỉa hè cũng có đèn chiếu sáng. Tôi có thể thấy rõ mọi vật từ xa trên đại lộ. Chúng tôi rẽ vào con đường khác, và lân đầu tiên tôi thấy Nhà hát Minamiza nằm phía bên kia một chiếc cầu ở trước mặt chúng tôi. Mái nhà nằm nghiêng đồ sộ, tôi thấy như một tòa lâu đài.
Cuối cùng chiếc xe kéo rẽ vào một con đường nhỏ hai bên tòan nhà gỗ. Nhà cửa ở đây nằm san sát vào nhau trông như thể chúng có cùng một mặt tiền – điều này một lần nữa làm cho tôi có cảm giác đã bị lạc đường. Tôi thấy những phụ nữ mặt kimono hấp tấp đi trên con đường nhỏ. Tôi thấy họ rất lịch sự, nhưng về sau này tôi biết họ hầu hết đều là tôi tớ trong nhà.
Khi xe chúng tôi dừng lại trước một ngôi nhà, ông Bekku ra lệnh cho tôi xuống xe. Ông ta bước xuống sau tôi, và rồi tuồng như cảnh đau đớn trong ngày chưa đủ, sự tệ hại nhất còn xảy ra tiếp cho chúng tôi nữa. Vì khi chị Satsu định xuống xe, thì ông Bekku quay lại, đưa tay đẩy chị lui vào trong xe. Ông ta nói với chị:
- Mày ngồi lại đấy. Mày đi đến chỗ khác.
Tôi nhìn Satsu và Satsu nhìn tôi. Có lẽ đây là lần đầu tiên chúng tôi hiểu tâm trạng của nhau hơn bao giờ hết. Nhưng việc này chỉ diễn ra một lát, vì sau đó mắt tôi nhòa lệ đến nỗi tôi không thấy gì hết. Tôi cảm thấy mình bị ông Bekku lôi đi, tôi nghe giọng nói của đàn bà nói cười với nhau rất huyên náo. Tôi bị ông Bekku kéo manh như muốn té xuống đường thì bỗng tôi thấy chị Satsu há hốc mồm nhìn cảnh tượng hiện ra ở phia sau tôi trên lối vào.
Tôi đang ở trên một lối đi nhỏ hẹp vào nhà, một bên có cái giếng nước trông có vẻ đã lâu đời và bên kia có vài cái cây. Ông Bekku lôi tôi vào nhà, và bây giờ ông ta phải kéo xệch tôi đi. Trên bậc thềm nhà, một phụ nữ rất đẹp đang đứng ở đấy, cô ta vừa xỏ chân vào đôi giày sơn mài, trên người mặc một chiếc áo kimono thật đẹp chưa bao giờ tôi được thấy. Chiếc kimono của nàng geisha có bộ răng hô ở thị trấn Senzuru của ông Tanaka đã làm cho tôi lác mắt rồi, nhưng cái áo này lại còn đẹp hơn rất nhiều. Cái áo này có màu xanh nước biển với những đường màu trắng ngà uốn lượn như dòng nước trong một con suối. Trong dòng nước, có một con cá hồi màu bạc óng ánh, và trên mặt nước, hễ nơi nào có những chiếc lá xanh lục mềm mại từ một thân cây chạm đến, là ở đấy được viền màu vàng. Tôi nghĩ chiếc áo được may bằng lụa rất mịn và chiếc khăn quàng quanh bụng cũng thế, khăn được thêu màu lục nhạt và vàng. Và không phải cái áo là vật duy nhất trên người cô ta đặc biệt đáng chú ý, mà mặt cô ta được trát phấn trắng tóat, như làn mâykhi được ánh mặt trời chiếu vào. Mái tóc được chải thành từng lọn theo kiểu tân thời, đen lấp lánh như những khối sơn mài, và được trang hòang bằng những thứ trang sức chạm trổ từ hổ phách, với một thanh ngang có đính nhiều chuỗi bằng bạc nhỏ li ti, mỗi khi cô ta di chuyển, những chuỗi bạc này đung đưa lấp lánh.
Đây là lần gặp mặt Hatsumono đầu tiên của tôi. Lúc ấy, cô ta là na1ng geisha nổi tiếng nhất ở vùng Gion này; nhưng dĩ nhiên khi ấy tôi không biết tí gì về cô ta hết. Cô ta nhỏ nhắn, kiểu tóc cô ta bới cao, nhưng cô ta đứng cũng không quá vai ông Bekku. Tôi quá kinh ngạc khi thấy cô ta, đến nỗi tôi quên hết cả phép lịch sự - mặc dù tôi chưa thấu hiểu thế nào là phép lịch sự - nên tôi cứ nhìn đăm đăm vào mặt cô ta. Cô ta mỉm cười nhìn tôi nhưng thái độ không được thân ái. Rồi bỗng cô ta nói:
- Ông Bekku, ông dẹp đồ rác rưởi đi được không? Tôi muốn đi ra đường đây.
Trên cửa ngõ không có rác rưởi gì hết; cô ta muốn ám chỉ tôi. Ông Bekku trả lời ông ta nghĩ cô Hatsumono có đủ chỗ để đi ra.
- Ông mới quan tâm đến việc đên gần bên nó – Hatsumono nói – Còn tôi, khi tôi thấy đồ rác rưởi bên này đường là tôi đi qua bên kia đường.
Bỗng một bà già hiện ra sau lưng cô ta trên ngưỡng cửa, người bà ta cao và thẳng đuột như cây tre, bà ta nói:
- Này cô Hatsumono, không biết có ai chịu đựng nổi với cô không.
Nhưng nói thì nói, bà ta vẫn ra dấu cho ông Bekku lôi tôi ra lại ngòai đường, và ông ta làm theo lời bà. Sau đó, bà ta bước xuống cửa ngỏ, bước đi rất ngượng ngập – vì một bên mông bà ta nhô ra khiến cho bà đi đưng khó khăn – rồi bà đến cái tủ nhỏ gắn trên vách. Bà ta lấy trong tủ ra vật gì đấy mà tôi nghĩ là một viên đá lửa và một viên đá có hình chữ nhật giống như cục đá mài của ngư dân, rồi bà ta đến sau lưng Hatsumono, đánh viên đá lửa vào cục đá, làm tóe ra một đốm lửa văng vào lưng của cô ta. Khi ấy tôi không hiểu bà ta làm như thế để làm gì, nhưng sau đó tôi mới biết giới geisha còn mê tín dị đoan hơn cả ngư dân nữa. Một nàng geisha mỗi khi đi ra ngòai vào buổi tối, là phải có ai đấy đánh đá lửa vào lưng họ để cầu may.
Sau đó, Hatsumono bước đi, những bước ngắn như thể nàng lướt theo tà áo kimono nhẹ rung. Lúc ấy tôi chưa biết cô ta là geisha, vì trông cô sáng giá hơn cái cô geisha ở Senzuru mà tôi đã thấy trước đây mấy tuần. Tôi cứ nghĩ cô ta là diễn viên sân khấu. Tất cả chúng tôi đều nhìn cô ta lướt đi một lát, rồi ông Bekku giao tôi cho bà già ở nơi cửa ngỏ. Ông ta quay lại chiếc xe kéo với chị tôi, và người phu xe nhấc càng lên. Tôi liền ngồi gục xuống trên nền cửa ngỏ mà khóc nức nở, nên không thấy họ ra đi lúc nào.
Hẳn là bà gìa thương hại tôi, vì tôi ngồi khóc nức nở đau khổ ở đấy một hồi lâu mà không ai đụng đến tôi.
Thậm chí tôi còn nghe bà biểu một chị giúp việc trong nhà im lặng khi chị đến để nói gì đó với bà ta. Cuối cùng bà ta đỡ tôi đứng dậy, lấy khăn trong cánh tay áo kimono màu xám giản dị, lau mặt cho tôi.
- Thôi thôi cháu ơi, đừng lo sợ làm gì, không ai ăn thịt cháu đâu mà sợ.
Bà ta nói với một giọng kỳ lạ giống như giọng của ông Bekku và Hatsumono. Giọng nghe rất khác với giọng tôi nghe người trong làng tôi nói, cho nên tôi phải cố gắnh lắm mới hiểu được. nhưng dù sao lời lẽ của bà nghe cũng thân ái nhất so với những người đã nói với tôi ngày hôm ấy, cho nên tôi nghĩ là phải làm theo lời khuyên của bà ta. Bà biểu tôi gọi bà bằng dì. Rồi bà nhìn vào mặt tôi đăm đăm và nói bằng một giọng khàn khàn:
- Trời đất! Cặp mắt mớii tuyệt làm sao! Cháu có biết cháu đẹp không? Thế nào Mẹ cũng khoái cho mà xem!
Tôi liền nghĩ chắc là mẹ của bà ta, và chắc bà ấy phải già lắm, vì bà Dì tóc đã bạc nhiều, chỉ thưa thớt một ít còn đen, mái tóc buộc cứng ra phía sau gáy.
Bà Dì dẫn tôi vào cửa, tôi thấy trước mắt là một hành lang bằng đất chạy qua giữa hai ngôi nhà rộng rãi nằm gần nhau, hành lang chạy dài cho đến cái sân sau. Một ngôi nhà nhỏ bằng ngôi nhà của tôi ở Yoroido, có hai phòng, nền nhà bằng đất, sau đó tôi mới biết đây là khu gia nhân ở. Ngôi nhà kia nhỏ hơn nhưng đẹp, nền nhà xây trên những tảng đá lớn hở nhau, một con mèo có thể bò qua được. Hành lang đi qua giữa hai ngôi nhà để lộ thiên, có thể nhìn thấy bầu trời đen ở trên đầu, cảnh tượng này khiến cho tôi có cảm giác là người ta đang ở trong một ngôi làng thu nhỏ hơn là trong một ngôi nhà – nhất là khi tôi nhìn thấy có nhiều ngôi nhà nhỏ bằng gỗ khác nữa nằm ở phía cuối sân. Khi ấy tôi không biết, nhưng đấy là kiểu nhà điển hình được người ta xây cất ở Kyoto. Những ngôi nhà ở trong sân, khi mớii nhìn, tôi tưởng đấy là một nhóm nhà nhỏ khác nhau, nhưng đấy chỉ là nhà nhỏ dùng làm phòng vệ sinh và kho hai tầng có thang ở bên ngòai để leo lên tầng trên. Tòan bộ ngôi nhà chiếm một diện tích nhỏ hơn ngôi nhà của ông Tanaka tại vùng quê mà chỉ có tám người ở. Và bấy giờ có tôi nữa là chín người.
Sau khi đã nhìn sơ qua cách bố trí các nơi trong nhà, tôi mớii nhìn đến ngôi nhà chính đẹp đẽ. Ở Yoroido, những ngôi nhà gỗ thường có màu xám chứ không có màu nâu, và bị gió biển làm cho gỗ đảo mục. Nhưng ở đây, nền nhà lát gỗ và các xà gỗ đều sáng bóng dưới ánh đèn điện vàng vọt. Những cánh cửa lùa mở ra tiền sảnh đều có che màn giấy, và một cái thang cũng nằm ở tiền sảnh bắt thẳng lên tầng trên. Một cánh cửa lùa đang mở, nên tôi có thể nhìn thấy trong nhà có một cái tủ gõ với bàn thờ Phật. Những căn phòng đẹp đẽ trong nhà này dành cho những người trong gia đình ở - kể cả Hatsumono, mặc dù cô ta không phải là thành phần trong gia đình, điều này sau đó tôi mới biết. Khi các thành viên trong gia đình muốn đi ra sân sau, họ không đi theo hành lang đất như gia nhân, mà họ có một hành lang nhỏ bằng gỗ đánh bóng chạy dọc theo một bên hông nhà. Nhà lại còn có phòng vệ sinh riêng biệt – phòng ở bên trên dành cho người trong nhà, còn phòng phía dưới dành cho gia nhân.
Tôi nghĩ chắc phải mất một vài ngày mớii biết hết khắp nơii trong nhà được. Trong khi bà Dì đi vào nhà bếp để nói chuyện với ai đấy, tôi đứng trên hành lang nhìn quanh, lòng phân vân không biết nơi này là nơi nào, tôi cảm thấy lo sợ vô cùng. Tiếng bà Dì nói với ai đấy trong bếp nghe ồ ồ. Cuối cùng có người đi ra. Người đi ra là một cô gái cỡ bằng tuổi tôi, trên tay xách một xô gỗ thật nặng đến nỗi nước bắn tung tóe trên nền đất. Thân hình cô ta nhỏ, nhưng khuôn mặt thì mập và tròn vành vạnh, trông như quả dưa hấu cắm trên cái que. Cô ta ráng sức để xách cái xô, lưỡi thè ra ngòai miệng như cọng lá thòi ra trên chóp trái bí ngô. Sau đó tôi nhận ra đấy là thói quen của cô ta. Cô ta thè lưỡi khi trộn cơm hoặc múc canh vào tô, hay thậm chí khi buộc dải áo. Và mặt cô ta mập ú, mêm mại, cái lưỡi thè ra cong lên như cọng bí, cho nên chỉ vài hôm sau tôi đã đặt cho cô ta biệt danh là “Bí Ngô”, và cái tên này liền được mọi người dùng để gọi cô ta – thậm chí nhiều năm về sau, khi cô ta đã trở thành geisha ở Gion, khách của cô cũng gọi thế.
Khi Bí Ngô để cái xô xuống bên cạnh tôi, cô ta thụt lưỡi vào,vừa nhìn tôi vừa đưa tay hất một dúm tóc xòa ra sau tai. Cô ta nhìn lên nhìn xuống người tôi. Tôi tưởng cô ta sắp nói gì, nhưng không, cô ta cứ nhìn như thể cô ta suy nghĩ có nên cắn tôi không. Quả vậy, trông cô ta có vẻ như đang đói. Nhưng cuối cùng cô ta nghiêng người gần bên tôi hỏi nhỏ:
- Bạn từ đâu đến đây?
Tôi nghĩ không nên cho cô ta biết tôi từ Yoroido đến đây, vì giọng cô ta tôi nghe cũng xa lạ như mọi người khác, tôi tin chắc cô ta không biết tên làng tôi được. Cho nên tôi chỉ đáp tôi vừa mớii đến.
- Mình cứ ngỡ không đời nào mình gặp một đứa con gái nào bằng tuổi mình ở đây – cô ta nói – Nhưng có phải cặp mắt bạn đã đưa bạn đến đây không?
Ngay khi ấy bà Dì từ trong bếp bước ra, bà đuổi Bi Ngô đi rồi xách xô nước lên và lấy miếng vả rẻo, bà dẫn tôi đi ra sân sau. Đường đi trên sân có lat đá, đá đóng meo trông rất đẹp. Đường đá chạy dài ra tận phía sau nhà kho và khi đi qua phòng vệ sinh trong căn nhà nhỏ nằm bên cạnh, mùi hôi thốí bốc lên nồng nặc. Bà Dì bảo tôi cởi áo quần ra. Tôi sợ bà ta sẽ làm cái công việc như bà Loay Hoay đã làm với tôi trước đây, nhưng không, bà ta chỉ xối nước lên vai tôi rồi lấy miếng vải rẻo kỳ cọ thân hình tôi. Xong xuôi, bà đưa cho tôi cái áo dài, cái áo may bằng vải thô có hình trang trí sơ sài màu xanh đậm, nhưng tôi thấy đây là cái áo đẹp hơn bất kỳ thứ gì tôi đã mặc trước đây. Một bà già mà sau đó tôi biết là bà đầu bếp ra đứng ở hành lang với nhiều chị ở đã lớn tuổi để nhìn tôi. Bà Dì nói họ sẽ có khối ngày giờ để nhìn tôi, và bảo họ hãy đi làm việc đi.