Câu nghị luận xã hội khá thú vị bởi nhiều lẽ. Trước hết là cách nhìn ra vấn đề khá độc đáo từ nhan đề một cuốn sách dịch “Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế” thay vì những danh ngôn, quan niệm, hay những câu chuyện… như phần lớn các đề quen thuộc.
“Thành công” và “tử tế” là hai vấn đề thường xuất hiện độc lập trong rất nhiều đề thi, rất nhiều bài viết – sự kết nối giữa chúng với nhau trong mối quan hệ nhân quả chính là góc nhìn tạo hứng thú cho học trò trong thời đại của các trào lưu Startup và “việc tử tế” - đặc biệt khi người ta nói nhiều tới “việc tử tế” như một tín hiệu cho thấy cuộc sống đang thiếu vắng sự tử tế, và nhiều thành công bất chấp cả đạo lí lẫn pháp lí.
Câu lệnh yêu cầu trình bày “suy nghĩ của anh/chị về “con đường” này” sẽ mở ra khá nhiều khả năng kiến giải – dù có thể thấy trước hướng khẳng định sẽ chiếm tuyệt đại đa số khi làm bài, bởi học trò sẽ không khó khăn để nhận ra tính đúng đắn muôn đời của sự tử tế.
Tuy nhiên, đề bài vẫn mở ra những khoảng trống của thử thách giúp phân loại những bài viết nhằm tới cái đúng đương nhiên, an toàn với những bài viết thể hiện hiểu biết xã hội sâu rộng, thể hiện những trăn trở suy tư thấu đáo trước mối quan hệ giữa lẽ phải với thực tế cuộc sống nhiều khi trái ngược.
Học sinh sẽ thể hiện kiến thức đời sống xã hội, năng lực lí giải và nhất là bản lĩnh tự chủ của mình khi đặt được vấn đề về nghịch lí và hướng giải quyết nghịch lí khi sống tử tế, trung thực thường thua thiệt, thậm chí thất bại.
Tuy nhiên, cũng vì nghịch lí này đang trở thành lẽ đương nhiên trong thực tế cuộc sống nên nếu học sinh không có tầm nhìn sâu rộng, không có khả năng lí giải, lập luận…, đề bài dễ đưa tới những bài văn viết như… nghị quyết hay bài giáo dục công dân!
Câu nghị luận văn học đề cập vấn đề quen thuộc của lí luận văn học là chức năng văn học, đặt vấn đề cụ thể về khả năng của văn học nhằm “giúp con người hóa giải những áp lực” trong cuộc sống. Với yêu cầu này của đề bài, học trò phải nắm chắc và đề cập được tất cả các chức năng của văn học, từ nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cho tới giao tiếp, giải trí…
Thử thách của đề bài không chỉ dừng lại ở phần kiến thức khá nặng của lí luận văn học vốn trừu tượng với các em mà còn hiện hữu chủ yếu ở cách các em xử lí mảng kiến thức ấy khi kết hợp với những minh chứng qua văn chương; thậm chí, khó khăn còn xuất hiện ngay trong mảng kiến thức đời sống khi các em đề cập tới những áp lực của đời sống tinh thần.
Khoảng trống trong dư địa vấn đề của câu nghị luận văn học có phần rộng hơn câu nghị luận xã hội khi học sinh hoàn toàn có thể đặt vấn đề phản biện về khả năng hóa giải áp lực tinh thần của văn chương, trong khi vấn đề về sự tử tế để thành công rất khó phản biện mà không chạm tới hàng rào đạo lí.
Thậm chí, nếu một số em cảm thấy sự bất lực của văn học với những áp lực ngày càng nặng nề trong cuộc sống thời hiện đại, các em có thể đặt ra những vấn đề lớn hơn về môi trường sống, môi trường xã hội… - cội nguồn của văn học.
Đề bài, về cơ bản có khả năng khơi gợi hứng thú và suy nghĩ độc lập cho học trò, dù vẫn hoàn toàn có khả năng tạo ra một loạt những bài viết ... như chân lí! Do vậy, khả năng phân loại và tìm ra học sinh giỏi thực sự không xuất hiện ở vấn đề mà chính là ở cách xử lí vấn đề.
PV
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại
“Thành công” và “tử tế” là hai vấn đề thường xuất hiện độc lập trong rất nhiều đề thi, rất nhiều bài viết – sự kết nối giữa chúng với nhau trong mối quan hệ nhân quả chính là góc nhìn tạo hứng thú cho học trò trong thời đại của các trào lưu Startup và “việc tử tế” - đặc biệt khi người ta nói nhiều tới “việc tử tế” như một tín hiệu cho thấy cuộc sống đang thiếu vắng sự tử tế, và nhiều thành công bất chấp cả đạo lí lẫn pháp lí.
Câu lệnh yêu cầu trình bày “suy nghĩ của anh/chị về “con đường” này” sẽ mở ra khá nhiều khả năng kiến giải – dù có thể thấy trước hướng khẳng định sẽ chiếm tuyệt đại đa số khi làm bài, bởi học trò sẽ không khó khăn để nhận ra tính đúng đắn muôn đời của sự tử tế.
Tuy nhiên, đề bài vẫn mở ra những khoảng trống của thử thách giúp phân loại những bài viết nhằm tới cái đúng đương nhiên, an toàn với những bài viết thể hiện hiểu biết xã hội sâu rộng, thể hiện những trăn trở suy tư thấu đáo trước mối quan hệ giữa lẽ phải với thực tế cuộc sống nhiều khi trái ngược.
Học sinh sẽ thể hiện kiến thức đời sống xã hội, năng lực lí giải và nhất là bản lĩnh tự chủ của mình khi đặt được vấn đề về nghịch lí và hướng giải quyết nghịch lí khi sống tử tế, trung thực thường thua thiệt, thậm chí thất bại.
Tuy nhiên, cũng vì nghịch lí này đang trở thành lẽ đương nhiên trong thực tế cuộc sống nên nếu học sinh không có tầm nhìn sâu rộng, không có khả năng lí giải, lập luận…, đề bài dễ đưa tới những bài văn viết như… nghị quyết hay bài giáo dục công dân!
Câu nghị luận văn học đề cập vấn đề quen thuộc của lí luận văn học là chức năng văn học, đặt vấn đề cụ thể về khả năng của văn học nhằm “giúp con người hóa giải những áp lực” trong cuộc sống. Với yêu cầu này của đề bài, học trò phải nắm chắc và đề cập được tất cả các chức năng của văn học, từ nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cho tới giao tiếp, giải trí…
Thử thách của đề bài không chỉ dừng lại ở phần kiến thức khá nặng của lí luận văn học vốn trừu tượng với các em mà còn hiện hữu chủ yếu ở cách các em xử lí mảng kiến thức ấy khi kết hợp với những minh chứng qua văn chương; thậm chí, khó khăn còn xuất hiện ngay trong mảng kiến thức đời sống khi các em đề cập tới những áp lực của đời sống tinh thần.
Khoảng trống trong dư địa vấn đề của câu nghị luận văn học có phần rộng hơn câu nghị luận xã hội khi học sinh hoàn toàn có thể đặt vấn đề phản biện về khả năng hóa giải áp lực tinh thần của văn chương, trong khi vấn đề về sự tử tế để thành công rất khó phản biện mà không chạm tới hàng rào đạo lí.
Thậm chí, nếu một số em cảm thấy sự bất lực của văn học với những áp lực ngày càng nặng nề trong cuộc sống thời hiện đại, các em có thể đặt ra những vấn đề lớn hơn về môi trường sống, môi trường xã hội… - cội nguồn của văn học.
Đề bài, về cơ bản có khả năng khơi gợi hứng thú và suy nghĩ độc lập cho học trò, dù vẫn hoàn toàn có khả năng tạo ra một loạt những bài viết ... như chân lí! Do vậy, khả năng phân loại và tìm ra học sinh giỏi thực sự không xuất hiện ở vấn đề mà chính là ở cách xử lí vấn đề.
PV
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại