Theo dự thảo, tần suất thực hiện, thời hạn gửi báo cáo được quy định với báo cáo định kỳ hằng quý là thực hiện 4 lần/1 năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất vào ngày 20 của tháng cuối quý thuộc kỳ báo cáo.
Báo cáo định kỳ 6 tháng: Thực hiện 2 lần/1 năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất vào ngày 20 tháng 6 (đối với báo cáo 6 tháng đầu năm) và ngày 20 tháng 12 (đối với báo cáo 6 tháng cuối năm).
Báo cáo định kỳ hằng năm: Thực hiện 1 lần/năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất là ngày 20 tháng 12 hằng năm.
Báo cáo theo học kỳ, năm học: Thực hiện 1 lần/1 năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất vào ngày 31 tháng 1 (đối với báo cáo sơ kết học kỳ I) và ngày 25 tháng 6 (đối với báo cáo tổng kết năm học).
Đối với các loại báo cáo định kỳ không theo kỳ báo cáo quy định như trên, đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ cần quy định cụ thể thời hạn gửi báo cáo căn cứ vào đối tượng thực hiện báo cáo, nội dung báo cáo và thời điểm chốt số liệu báo cáo, nhưng phải bảo đảm thời gian không ít hơn 1 ngày làm việc tính từ thời điểm chốt số liệu báo cáo đến thời hạn gửi báo cáo hoặc ước tính thời gian từ khi nhận được báo cáo để tổng hợp đến thời gian hoàn thành báo cáo và gửi đi.
Đối với trường hợp báo cáo phức tạp, có nhiều đối tượng thực hiện và phải tổng hợp qua nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp khác nhau thì các đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ phải quy định rõ thời hạn gửi báo cáo đối với từng đối tượng, từng cấp báo cáo đó.
Các đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ thực hiện lồng ghép các nội dung báo cáo, chia sẻ thông tin báo cáo bảo đảm chỉ yêu cầu báo cáo một lần trong một kỳ báo cáo đối với các nội dung cùng lĩnh vực quản lý.
Nội dung chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ GD&ĐT bao gồm các thành phần theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại
Báo cáo định kỳ 6 tháng: Thực hiện 2 lần/1 năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất vào ngày 20 tháng 6 (đối với báo cáo 6 tháng đầu năm) và ngày 20 tháng 12 (đối với báo cáo 6 tháng cuối năm).
Báo cáo định kỳ hằng năm: Thực hiện 1 lần/năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất là ngày 20 tháng 12 hằng năm.
Báo cáo theo học kỳ, năm học: Thực hiện 1 lần/1 năm, thời hạn gửi báo cáo chậm nhất vào ngày 31 tháng 1 (đối với báo cáo sơ kết học kỳ I) và ngày 25 tháng 6 (đối với báo cáo tổng kết năm học).
Đối với các loại báo cáo định kỳ không theo kỳ báo cáo quy định như trên, đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ cần quy định cụ thể thời hạn gửi báo cáo căn cứ vào đối tượng thực hiện báo cáo, nội dung báo cáo và thời điểm chốt số liệu báo cáo, nhưng phải bảo đảm thời gian không ít hơn 1 ngày làm việc tính từ thời điểm chốt số liệu báo cáo đến thời hạn gửi báo cáo hoặc ước tính thời gian từ khi nhận được báo cáo để tổng hợp đến thời gian hoàn thành báo cáo và gửi đi.
Đối với trường hợp báo cáo phức tạp, có nhiều đối tượng thực hiện và phải tổng hợp qua nhiều cơ quan, đơn vị, nhiều cấp khác nhau thì các đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ phải quy định rõ thời hạn gửi báo cáo đối với từng đối tượng, từng cấp báo cáo đó.
Các đơn vị chủ trì xây dựng chế độ báo cáo định kỳ thực hiện lồng ghép các nội dung báo cáo, chia sẻ thông tin báo cáo bảo đảm chỉ yêu cầu báo cáo một lần trong một kỳ báo cáo đối với các nội dung cùng lĩnh vực quản lý.
Nội dung chế độ báo cáo định kỳ thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ GD&ĐT bao gồm các thành phần theo quy định tại Điều 7 Nghị định số 09/2019/NĐ-CP ngày 24 tháng 01 năm 2019 của Chính phủ quy định về chế độ báo cáo của cơ quan hành chính nhà nước.
Nguồn: Báo Giáo dục & Thời đại