Vua Minh Mạng (1791-1841), lăng Minh Mạng (Hiếu lăng) nằm ở xã Hương Thọ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Khi vua qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo vua về với lòng đất. Theo truyền thuyết, “sau khi khiêng hàng trăm thậm chí hàng ngàn rương vàng bạc, châu báu đặt vào các thạch thất, toán lính đã tình nguyện chết mang theo bí mật xuống mồ với tinh thần “vua kêu tử thần tử”. Chỉ duy nhất vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu”.
Ba lần tìm thấy hầm chứa kho báu được chôn thời vua Minh Mạng
Dưới thời Pháp thuộc, người ta khai quật được 3 hầm châu báu ở Kinh thành Huế.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ cho biết, kho tàng của triều Nguyễn dưới thời Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội Vụ Phủ.
Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Các kho được triều đình cho kiểm kê đầy đủ, nghiêm ngặt và thanh tra chặt chẽ.
Riêng hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng bạc vào năm 1836.
Vào cuối năm 1838, Vua Minh Mạng cho di dời Nội Vụ Phủ ra khỏi Tử Cấm Thành và thiết lập tại khu vực bên trái Hoàng Thành (tức là khuôn viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật ngày nay).
Nhà vua giao cho Thống chế Mai Công Ngôn điều khiển 2.000 biền binh làm công việc dời kho này. Cẩn thận hơn, vua Minh Mạng đã chỉ định các đại thần cao cấp nhất trong triều đình là Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau hàng ngày đến giám sát công việc dời kho để của kho khỏi bị bỏ sót và thất thoát.
Theo đó, hầm bạc đầu tiên của Vua Minh Mạng được phát hiện vào thời Vua Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ đại thần Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái Quan hội đồng và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy một hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có 3 cụm chữ triện đóng riêng rời.
Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích. Về sau ông khâm sứ đại thần nói với vua số bạc ấy trừ thuế, phí tổn đài tải quy ra tiền tổng cộng 460.350 đồng, gửi Ngân hàng Thượng Hải.
Sau 6 năm sau, năm Duy Tân thứ 9 (1915), một hầm bạc khác được phát hiện. Trong quá trình đào đất sau cửa Tường Loan để sửa chữa ống nước trong khuôn viên Đại Nội, toán thợ chạm phải hầm bạc, một số phái viên của Bộ Công đã trình lên trên. Nhận được tin, Phủ Phụ chính cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem thấy dưới hầm gạch có hòm gỗ, hai đầu đều có đai sắt mục đứt lộ ra các thỏi bạc.
Khi đào lên kiểm biên có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ, dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”.
Hầm bạc thứ ba được tìm thấy sau đó một tháng (29/8), tại khu vực chỗ cửa Tường Loan, khi thi công sửa chữa miệng ống nước, lúc đào gạch lát nền, những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn, trên ấy có đồng tiền đồng hạng lớn đã nghĩ ngay đó là hầm chôn bạc của vua tiền triều.
Việc phát hiện được báo lên trên, lần này đích thân vua Duy Tân cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem việc “khai quật”. Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi...
Như vậy theo chính sử nhà Nguyễn, đã có 3 lần tìm thấy hầm bạc thời Vua Minh Mạng dưới sự hiện diện, giám sát chặt và định đoạt của người Pháp.
Dấu vết cuối cùng về kho báu?
Mãi đến gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, trong Đại Nội lại diễn ra thêm một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào công bố. Những thông tin về sự kiện này được biết đến qua chia sẻ của nhà Huế học Phan Thuận An. Ông cũng chính là người chứng kiến toàn bộ quá trình từ khi bắt đầu khai quật cho đến khi kết thúc cuộc tìm kiếm.
Sự kiện diễn ra vào mùa Đông năm 1988, theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An: “Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của bộ Nội vụ (cũ) vào Bình Trị Thiên (cũ) phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên, mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc về lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an Bình Trị Thiên đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết mình đang đào tìm gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó. Hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945”.
Trước hết, lực lượng tìm kiếm đào thám sát ba hố gần bờ hồ và gần một gốc cây đại thụ nằm không xa chân tường, phía trong của Tử Cấm Thành. Sau khoảng ba tuần đào bới thấy được một viên đá có hình thù và diện mạo hơi lạ, cỡ lớn hơn viên bờ lô.
Nó nằm ở bậc thềm xây để bước xuống một cái hầm nay đã bị lấp. Trên mặt viên đá có một kí hiệu khả nghi. Người ta đoán rằng có lẽ đó là chữ Hán viết thảo để cho biết kho vàng nằm ở đâu. Viên đá được đem về Sở Công an rồi dùng xe chở đi nhờ nhà sư ở các chùa và các vị túc nho ở Huế đọc chữ Hán ấy. Tất cả các vị đều không nhận ra là chữ gì.
Viên đá được đem về Phòng An ninh kinh tế của Sở Công an đặt vào tủ kính kèm theo hồ sơ nói về lai lịch và kích thước của nó. Sau đó mấy tuần, Sở Công an thông báo và mời Công ty quản lý di tích lịch sử và văn hóa Huế sang nhận viên đá về để nghiên cứu. Hiện nay, viên đá vẫn còn để lại tại cơ quan này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An khẳng định.
Tuy mất khá nhiều thời gian nhưng kết quả của cuộc tìm kiếm này không có thứ gì giá trị như những lần người Pháp tìm thấy trước đó. Từ thời điểm đó đến bây giờ không còn có bất kỳ một cuộc khai quật nào liên quan kho báu trong lòng đất của vua Minh Mạng nữa.
Có hay không còn nhiều hầm bạc khác đang nằm đâu đó trong phạm vi Kinh thành Huế, mặc dù đã cất công tìm kiếm, hậu thế sau này chẳng thể nào phát hiện được thêm dấu vết nào nữa vì mọi manh mối đã bị đứt đoạn bởi thời gian và dòng chảy lịch sử, và chỉ mỗi vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu. Có lẽ tất cả vẫn sẽ mãi mãi là một bí ẩn...
Nguồn: Báo điện tử Kiến Thức
Khi vua qua đời, toàn bộ những thông tin liên quan đến kho tàng này đều theo vua về với lòng đất. Theo truyền thuyết, “sau khi khiêng hàng trăm thậm chí hàng ngàn rương vàng bạc, châu báu đặt vào các thạch thất, toán lính đã tình nguyện chết mang theo bí mật xuống mồ với tinh thần “vua kêu tử thần tử”. Chỉ duy nhất vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu”.
Ba lần tìm thấy hầm chứa kho báu được chôn thời vua Minh Mạng
Dưới thời Pháp thuộc, người ta khai quật được 3 hầm châu báu ở Kinh thành Huế.
Sách Đại Nam nhất thống chí (tập Kinh sư), Đại Nam thực lục và Đại Nam Điển Lệ cho biết, kho tàng của triều Nguyễn dưới thời Gia Long gọi là Nội Đồ Gia, được thiết lập ở phía tả của Hưng Khánh thuộc Tử Cấm Thành, qua năm đầu thời Minh Mạng được đổi tên là Nội Vụ Phủ.
Cơ quan này quản lý 7 kho với 7 loại vật hạng khác nhau, trong đó kho vàng bạc là quan trọng nhất. Mỗi kho có 12 người chủ thủ canh giữ rất cẩn mật. Các kho được triều đình cho kiểm kê đầy đủ, nghiêm ngặt và thanh tra chặt chẽ.
Riêng hầm chứa vàng bạc ở kho này đã chứa đến 200.000 lượng vàng bạc vào năm 1836.
Vào cuối năm 1838, Vua Minh Mạng cho di dời Nội Vụ Phủ ra khỏi Tử Cấm Thành và thiết lập tại khu vực bên trái Hoàng Thành (tức là khuôn viên Trường Cao đẳng Mỹ thuật ngày nay).
Nhà vua giao cho Thống chế Mai Công Ngôn điều khiển 2.000 biền binh làm công việc dời kho này. Cẩn thận hơn, vua Minh Mạng đã chỉ định các đại thần cao cấp nhất trong triều đình là Phạm Hữu Tâm, Nguyễn Tăng Minh, Trương Đăng Quế và Hà Duy Phiên thay nhau hàng ngày đến giám sát công việc dời kho để của kho khỏi bị bỏ sót và thất thoát.
Theo đó, hầm bạc đầu tiên của Vua Minh Mạng được phát hiện vào thời Vua Thành Thái thứ 11 (1899), Khâm sứ đại thần Boulloche sau khi nhận được tin báo của Hoằng Trị quận vương Hồng Tố nói đời Vua Minh Mạng và Thiệu Trị có chôn nhiều bạc trong Đại Nội đã phái Quan hội đồng và phát 100 phu khỏe theo nơi được chỉ đào và tìm thấy một hầm bạc ba vết (là loại bạc chuẩn của triều Nguyễn, trên thường có 3 cụm chữ triện đóng riêng rời.
Khâm sứ đại thần bàn trích 30.000 nén do Thượng thư Bộ Hộ Trương Như Cương, Hội biện Đô Ty chở ra Ngân hàng Hải Phòng đổi lấy tiền chi biện các việc công ích. Về sau ông khâm sứ đại thần nói với vua số bạc ấy trừ thuế, phí tổn đài tải quy ra tiền tổng cộng 460.350 đồng, gửi Ngân hàng Thượng Hải.
Sau 6 năm sau, năm Duy Tân thứ 9 (1915), một hầm bạc khác được phát hiện. Trong quá trình đào đất sau cửa Tường Loan để sửa chữa ống nước trong khuôn viên Đại Nội, toán thợ chạm phải hầm bạc, một số phái viên của Bộ Công đã trình lên trên. Nhận được tin, Phủ Phụ chính cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem thấy dưới hầm gạch có hòm gỗ, hai đầu đều có đai sắt mục đứt lộ ra các thỏi bạc.
Khi đào lên kiểm biên có đến 60 hòm gỗ với 10.000 hốt bạc và 1 đồng tiền đồng đỏ cùng khắc chữ Phú Thọ Đa Nam, 28 đồng tiền đồng và tấm bia đá khắc 16 chữ, dịch nghĩa “Giáp Ngọ ngày tốt, mười vạn bạc ròng, lưu làm quốc dụng, ai dám riêng lòng”.
Hầm bạc thứ ba được tìm thấy sau đó một tháng (29/8), tại khu vực chỗ cửa Tường Loan, khi thi công sửa chữa miệng ống nước, lúc đào gạch lát nền, những người thợ thi công đụng phải phiến đá lớn, trên ấy có đồng tiền đồng hạng lớn đã nghĩ ngay đó là hầm chôn bạc của vua tiền triều.
Việc phát hiện được báo lên trên, lần này đích thân vua Duy Tân cùng Khâm sứ đại thần Charles tới xem việc “khai quật”. Quá trình đào tìm thấy 1 đồng tiền đồng đỏ, 28 tiền đồng, bia đá khắc 16 chữ với nội dung “Minh Mạng Giáp Ngọ, cất bạc trăm ngàn, của nước không thiếu, chất chứa muôn vàng” và 70 hòm gỗ, bên trong có 10.000 hốt bạc thỏi...
Như vậy theo chính sử nhà Nguyễn, đã có 3 lần tìm thấy hầm bạc thời Vua Minh Mạng dưới sự hiện diện, giám sát chặt và định đoạt của người Pháp.
Dấu vết cuối cùng về kho báu?
Mãi đến gần 100 năm sau lần tìm kiếm cuối cùng của người Pháp, trong Đại Nội lại diễn ra thêm một cuộc tìm kiếm mà chưa có tài liệu nào công bố. Những thông tin về sự kiện này được biết đến qua chia sẻ của nhà Huế học Phan Thuận An. Ông cũng chính là người chứng kiến toàn bộ quá trình từ khi bắt đầu khai quật cho đến khi kết thúc cuộc tìm kiếm.
Sự kiện diễn ra vào mùa Đông năm 1988, theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An: “Lúc bấy giờ, một số cán bộ có thẩm quyền của bộ Nội vụ (cũ) vào Bình Trị Thiên (cũ) phối hợp với Sở Công an và Tỉnh ủy để cho đào. Dĩ nhiên, mọi việc đều được tiến hành trong vòng bí mật. Một góc của Tử Cấm thành bị phong tỏa và được canh gác kỹ lưỡng. Lực lượng đào gồm khoảng 10 người thuộc về lực lượng trinh sát chính trị và kinh tế của Sở Công an Bình Trị Thiên đóng tại Huế. Chính những người đào cũng chẳng được cho biết mình đang đào tìm gì, cứ nghĩ rằng có lẽ việc đào bới tìm tòi này liên quan đến một vụ án chính trị hoặc kinh tế nào đó. Hoặc đào hầm vũ khí chôn giấu từ trước năm 1945”.
Trước hết, lực lượng tìm kiếm đào thám sát ba hố gần bờ hồ và gần một gốc cây đại thụ nằm không xa chân tường, phía trong của Tử Cấm Thành. Sau khoảng ba tuần đào bới thấy được một viên đá có hình thù và diện mạo hơi lạ, cỡ lớn hơn viên bờ lô.
Nó nằm ở bậc thềm xây để bước xuống một cái hầm nay đã bị lấp. Trên mặt viên đá có một kí hiệu khả nghi. Người ta đoán rằng có lẽ đó là chữ Hán viết thảo để cho biết kho vàng nằm ở đâu. Viên đá được đem về Sở Công an rồi dùng xe chở đi nhờ nhà sư ở các chùa và các vị túc nho ở Huế đọc chữ Hán ấy. Tất cả các vị đều không nhận ra là chữ gì.
Viên đá được đem về Phòng An ninh kinh tế của Sở Công an đặt vào tủ kính kèm theo hồ sơ nói về lai lịch và kích thước của nó. Sau đó mấy tuần, Sở Công an thông báo và mời Công ty quản lý di tích lịch sử và văn hóa Huế sang nhận viên đá về để nghiên cứu. Hiện nay, viên đá vẫn còn để lại tại cơ quan này, nhà nghiên cứu Phan Thuận An khẳng định.
Tuy mất khá nhiều thời gian nhưng kết quả của cuộc tìm kiếm này không có thứ gì giá trị như những lần người Pháp tìm thấy trước đó. Từ thời điểm đó đến bây giờ không còn có bất kỳ một cuộc khai quật nào liên quan kho báu trong lòng đất của vua Minh Mạng nữa.
Có hay không còn nhiều hầm bạc khác đang nằm đâu đó trong phạm vi Kinh thành Huế, mặc dù đã cất công tìm kiếm, hậu thế sau này chẳng thể nào phát hiện được thêm dấu vết nào nữa vì mọi manh mối đã bị đứt đoạn bởi thời gian và dòng chảy lịch sử, và chỉ mỗi vua Minh Mạng là người nắm giữ mật đồ chôn các kho báu. Có lẽ tất cả vẫn sẽ mãi mãi là một bí ẩn...
Nguồn: Báo điện tử Kiến Thức