Truyện thơ Lục Vân Tiên - sự tiếp biến ba tư tưởng Nho, Phật, Đạo (P1)

cohonnhien

Thành viên
#1
Không biết tự bao giờ, văn chương Nguyễn Đình Chiểu đã thấm sâu vào đời sống tâm hồn người dân Nam Bộ. Tác giả là một trí thức lớn, quý Phật, gần Đạo, học và sống theo khuôn phép nhà Nho. Vậy mà tác phẩm của ông lại không hề mang âm sắc cao đạo của chuông vàng khánh bạc. Nó tự nhiên và giản dị như phù sa sông bồi. Nó nảy mầm xanh lá như cây gặp đất phù sa. Mỗi tác phẩm, mỗi nhân vật của ông chất chứa một phần yêu thương, khao khát của nhân dân. Bởi nó đã nói thay tư tưởng, tiếng lòng của những con người khai sơn phá thạch: mọi triết lý đều thấm vào hành vi ứng xử, thành những câu ca phập phồng hơi thở cuộc sống; mọi ràng buộc phép tắc bị cởi bỏ, được nhân dân đan dệt thành chiếc võng đạo lý, ru bao giấc mơ đầy màu sắc tín ngưỡng dân gian. Đưa tác phẩm của mình về với nhân dân, trở thành báu vật của nhân dân, đó không chỉ bởi tài năng, đó còn bởi Nguyễn Đình Chiểu đã tiếp biến đầy sáng tạo những tư tưởng Nho, Phật, Đạo mà ông thấm nhuần bài bản từ sách vở. Sự tiếp biến ấy đã lộ diện ngay từ tác phẩm lớn đầu tiên của ông: truyện thơ Lục Vân Tiên.



Bài viết nhỏ này đi theo sức hút ấy, tìm hiểu vì sao Đồ Chiểu vẫn nói đến Nho, đến Phật, đến Đạo, mà nhân dân lại yêu quý, giữ gìn truyện thơ Lục Vân Tiên như chính suy nghĩ, tấm lòng mình.



*



Lục Vân Tiên quả là tác phẩm đáng dành làm bài ca hát ru con trẻ, làm lời ngâm tặng vợ chồng son, làm lời nghiêm răn những kẻ ăn ở hai lòng... Âm điệu du dương trầm bổng; chuyện lương duyên kỳ lạ, éo le; lắm thủy chung mà cũng nhiều phản trắc... đó là sức lay động, sức xuyên thấm mãnh liệt của khúc ca này.





Xét về tư tưởng, thơ Lục Vân Tiên đậm màu sắc Nho giáo. Lần theo cuộc hành trình của chàng nho sinh Lục Vân Tiên, gặp gỡ tiểu thư Kiều Nguyệt Nga, đối ẩm cùng Hớn Minh, Tử Trực, ẩn dật cùng ông Ngư, ông Tiều..., người đọc nhận ra Trung – Hiếu – Tiết – Nghĩa, rồi đến Nhân – Dũng – Khí, lại thêm Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín... Nhưng suy ngẫm kỹ, tất cả có còn là Nho thoát thai từ sách vở nữa đâu? Nó đã chuyển hóa thành đạo đức, thành đạo lý nhân dân mất rồi!



Bằng khả năng hạn hẹp, người viết bài này chỉ xin tìm hiểu hai nội dung lớn trong đó: Nhân và Nghĩa.

Mở đầu tác phẩm, chữ Nhân đã xuất hiện qua lời bình thấm thía:



“Trước đèn xem truyện Tây minh

Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le”



Nhân, trong lời thơ, là lòng người ăn ở với nhau. Nó là khúc biến tấu từ chữ Nhân của Nho giáo. Trước hết, theo Khổng Tử, Nhân là sống đúng với mình, sống phải với người. Nhân dùng để giáo hóa con người,, cải biến xã hội từ loạn thành trị. Vậy ai học được chữ Nhân ấy? Thật khắc nghiệt! Chỉ có người quân tử, tức kẻ có địa vị trong xã hội, mới học được đức nhân. Với Khổng Tử, chưa hề có người tiểu nhân có nhân, nghĩa là những người chân lấm tay bùn, cui cút khổ nghèo, muôn đời không thể sống có nhân? Điều này quả thật xa lạ với Lục Vân Tiên.



Cũng theo Khổng Tử, Nhân là sửa mình theo lễ: khi ở nhà thì giữ gìn cho khiêm cung, khi làm việc thì kính cẩn, khi giao tiếp với người thì trung thành. Cách hiểu này, hóa ra, chỉ đòi hỏi sự phục tùng của kẻ dưới đối với bề trên. Xem đó, chữ Nhân trong Lục Vân Tiên phóng khoáng hơn nhiều. Có chăng, Nguyễn Đình Chiểu đã học được ở Khổng Tử chữ Aùi nhân (lòng thương người).



Theo Khổng Tử, Nhân là cái gốc đạo đức của con người, là đạo làm người. Tuy nhiên, đạo làm người của Nguyễn Đình Chiểu lại thật gần gũi, phù hợp với nhân dân.



Xét đến Mạnh Tử, người kế tục Khổng Tử, chữ Nhân đứng hàng đầu trong bốn đức lớn: Nhân – Nghĩa – Lễ - Trí. Chúng bắt nguồn từ bốn đầu mối của Thiện. Trong đó, lòng thương xót là đầu mối của Nhân. Tuy nhiên, Nhân – Nghĩa, theo Mạnh Tử, cũng chỉ nhằm duy trì chế độ đẳng cấp mà thôi. Chữ Nhân của Nguyễn Đình Chiểu gần gũi mà thiêng liêng hơn: biết sống cao đẹp, biết xả thân hy sinh vì người khác.



Hay như ở Mặc Tử, Nhân là Kiêm ái (bao hàm chữ Nghĩa), là yêu hết thảy mọi người như nhau, không phân biệt thân – sơ – quý – tiện, yêu người như yêu mình. Điều này có vẻ hẹp so với tinh thần thương ghét phân minh của Đồ Chiểu:



“Vì chưng hay ghét cũng là hay thương”

Hay như:

“Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm”

Nó càng khác xa, khi Mặc Tử còn khẳng định:

“Kiêm ái là đạo của Thánh nhân”.



Sống với thế giới của truyện Lục Vân Tiên, người đọc nhận ra chữ Nhân trên mọi nẻo đường. Lòng thương người trở thành một tiêu chuẩn đạo đức của người có đức hạnh. Nó cũng là lối sống của bất cứ ai coi trọng tấm lòng hơn tiền của:



“Làm ơn há dễ trông người trả ơn”



Truyện Lục Vân Tiên thật sự là nơi hội tụ những con người biết yêu thương: chàng Lục Vân Tiên động lòng trước cảnh dân than khóc tưng bừng; ông Ngư, ông Tiều cứu vớt, cưu mang người dưng mắc nạn, Tiểu đồng khóc thương thầy bạc mệnh,... Với Đồ Chiểu, đức nhân đâu dành riêng cho người quân tử. Nó không phải sự phục tùng. Nó cũng chẳng nhằm duy trì một chế độ đẳng cấp nào. Nó có thương và có ghét, thậm chí ghét rạch ròi. Nó là lòng yêu ghét của người dân lao động. Ngoài ra, lòng thương người còn được chiếu lung linh qua một không gian huyền diệu: sự phù hộ của lực lượng siêu nhiên dành cho người hiền lành, phúc hậu.



Chữ Nhân, trong tác phẩm, vì thế, có xương cốt là Nhân của Nho giáo nhưng hồn vía là Lòng thương người, một nét đẹp ngàn đời của dân tộc Việt Nam:



“Lá lành đùm lá rách”

“Thương người như thể thương thân”

Hay như:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”



Đến với miền đất bạt ngàn Nam bộ, toàn những con người ly hương, tìm sự sống từ thiên nhiên khốc liệt, lòng thương người ấy lại thêm chín đỏ, ngọt ngào.



Tuy nhiên, Đồ Chiểu không hề tách rời Nhân với Nghĩa. Ông xét chúng trên tinh thần tương hỗ. Dễ nhận thấy, trong Lục Vân Tiên, Nghĩa có phần sinh động, sâu sắc và thấu đáo hơn chữ Nhân. Xuôi theo dòng suối ngọt tác phẩm, dài 2082 câu thơ, người đọc tìm ra 12 lần nhắc đến Nghĩa, với 14 chữ. Có khi, nó là biến âm theo phương ngôn Nam Bộ: Ngãi. Cấu tạo của nó cũng thật sinh động: có lúc biệt lập; có lúc tạo thành tổ hợp: nhân nghĩa, nhân ngãi, ngãi nhơn. Nó giản dị qua cách nói bình dân: trọn nghĩa, hết nghĩa, nghĩa sâu; đôi lúc sang trọng qua cách nói Hán văn: kiến ngãi bất vi, trọng ngãi khinh tài. Chữ Nghĩa được đặt vào lời ăn tiếng nói của biết bao nhân vật: Lục Vân Tiên – 3 lần, Ông Ngư – 3 lần, Kiều Nguyệt Nga – 2 lần; Tiểu đồng, Sở Vương, Tử Trực, đều cùng một lần lên tiếng. Đặc biệt, có lúc, ta thấy như là lời bình của tác giả:



“Làm người cho biết nghĩa sâu

Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn”



Chữ Nghĩa ở đây không đối lập với tinh thần Nho giáo. Nó cũng xuất phát từ tinh thần Kiêm ái mà Mặc Tử đề cao. Trong đó, Ái là nhân, Kiêm là nghĩa. Nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại lợi lớn cho con người. Nó được hiểu là làm lợi cho người. Lúc này, Nghĩa là danh mà Lợi là thực. Cũng phải khẳng định lần nữa, Kiêm ái, theo Đồ chiểu, không phải là đạo chỉ dành cho thánh nhân.



Chữ Nghĩa được ông hiểu theo tinh thần rộng mở. Nghĩa là điều hợp với lẽ phải, làm khuôn phép cho cách xử thế của mọi người trong xã hội. Nó đặc biệt gắn với quan hệ tình cảm thủy chung, phù hợp với những quan niệm đạo đức của nhân dân. Lòng thẹn, ghét trong Lục Vân Tiên rất gần với chữ Nghĩa của Mạnh Tử ngày xưa.



Nội dung chữ Nghĩa được chuyển tải thông qua các nhân vật chính diện. Trước hết, đó là Lục Vân Tiên. Chàng thư sinh miệt mài đèn sách, chỉ mong sớm ngày bước đến thang mây. Vậy mà, trên bước đường lai kinh ứng thí, chàng đã nán lại, làm một việc nghĩa lớn lao.

Chuyện bọn cướp Phong Lai đâu liên lụy đến chàng. Nhưng học sách thánh hiền, thấy người hoạn nạn, bị ức hiếp, làm sao quân tử cam lòng; thấy bọn gian tà độc ác, làm sao để chúng dung thân? Lục Vân Tiên vụt thành anh hùng chỉ vì thấy việc phải mà làm:



“Nhớ câu kiến ngãi bất vi

Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”



Chàng không kịp nghĩ đến thiệt hơn, tai họa cho bản thân, cho dù bọn Phong Lai nanh vuốt có cả bầy đàn, cho dù chàng chỉ một thân cây làm gậy. Tài năng và sức mạnh chính nghĩa đã giúp chàng chiến thắng. Giúp người xong rồi, chàng chẳng màng được đền ơn, chẳng nhận lấy một chút quà mọn làm kỷ vật. Đó cũng là suy nghĩ theo lẽ phải:



“Nhớ câu trọng ngãi khinh tài

Nào ai chịu lấy của ai làm gì”



Phẩm chất ấy của Vân Tiên là Nghĩa trong Nho giáo, nhưng cũng đâu nằm ngoài tấm lòng hào hiệp, tốt bụng của người dân Nam Bộ. Dẹp gian tà có khác gì diệt mãng xà, trừ sấu dữ trên đường khẩn hoang lập nghiệp?



Nhưng Vân Tiên không học chữ Nghĩa cốt trở thành anh hùng. Chàng học Nghĩa để làm người, làm đứa con hiếu thảo. Đường công danh đang ở tầm tay, nghe tin mẹ mất, chàng quay về thọ tang. Tiếc thương mẹ, khóc đến mù đôi mắt... Sống sót từ sông sâu, hố thẳm, chàng về bên mộ mẹ. Bài văn tế cất lên nghẹn ngào đứt ruột:



“Tưởng bề nguồn nước cội cây

Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng”



Học gương người xưa, chàng tưởng nhớ chín chữ cù lao. Ơn nghĩa sinh thành như nguồn nước cội cây, người quân tử sao quên báo hiếu. Nhớ chữ Ngãi, Vân Tiên đồng thời sống theo chữ Hiếu của dân gian:



“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”



Chưa kể, chàng còn tỏ cái nghĩa với Tiểu đồng. Được ông Tiều cứu giúp, chàng gặp lại bạn Hớn Minh. Khóc mẹ, chàng còn khóc cho cảnh thảm của Tiểu đồng:



“Hữu tam bất hiếu đã đành

Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan”



Nho giáo chỉ đòi hỏi kẻ dưới hy sinh, phục tùng tuyệt đối bề trên, nhưng chàng Vân Tiên đã thương tôi tớ bằng tình cảm ruột thịt gia đình. Chàng đối xử với Tiểu đồng bằng cả lòng yêu thương và kính trọng một con người biết hy sinh và làm theo lẽ phải. Vậy là chữ Nghĩa của Vân Tiên đẹp trọn cả đôi đường: theo Nho giáo và theo đạo lý nhân dân.



Tiếp theo Lục Vân Tiên là Kiều Nguyệt Nga. Người con gái thủy chung đâu kém chàng về Nghĩa. Kẻ gian đẩy nàng làm cống phẩm giặc Ô Qua. Phận nữ nhi ngày xưa, chẳng ai buộc lo đại sự. Nhưng suy nghĩ của nàng đáng cho nam nhi giật mình, khâm phục:



“Tình phu phụ nghĩa quân thần

Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên”



Đây hẳn là tư tưởng của Nguyễn Đình Chiểu đó thôi. Nhưng mượn lời Kiều Nguyệt Nga để nói, tức là muốn thêm ánh sáng cho nhân vật rồi. Nàng nghĩ đến nghĩa vua tôi mà cho cái bất hạnh của mình là một cách đền ơn vua, ơn nước. Nàng nghĩ đến nghĩa vua tôi mà muốn trọn vẹn cả tình nghĩa vợ chồng. Bài toán khó giải đã được nàng khai thông bằng cách hy sinh mạng sống:



“Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền

Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền găp nhau”







Sự lựa chọn quyết liệt của Kiều Nguyệt Nga là minh chứng cho kiểu người theo đạo lý nhà Nho. Nhưng mượn dòng nước để quyên sinh, nàng cũng đâu kém gì những liệt phụ trong chuyện dân gian đời trước: xem cái chết là cách thanh thản nhất để giữ tròn tiết hạnh, danh thơm.



Một nhân vật cao đẹp khác chính là ông Ngư. Ông là hình ảnh sinh động của kẻ tiểu nhân, mà ngày xưa, Khổng Tử từng đặt để. Ông bềnh bồng rày doi mai vịnh, ông ẩn khuất hôm mai hẩm hút, ông dong thuyền lánh câu danh lợi. Ông là hình ảnh của muôn ngàn dân nghèo thả lưới, giăng câu khắp sông rạch miền Nam. Có ai ngờ, con người ấy lại ba lần nhắc chữ nhà Nho: nhân nghĩa, nhân ngãi, ngãi nhơn. Ông một lòng xem nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Nhân nghĩa theo ông, qua việc làm, cả trong câu nói:



“Ngư rằng: lòng lão chẳng mơ

Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”



Ông thương người, làm việc phải, không màng báo đáp, đó là vì học cách người xưa:

“Xưa còn thương kẻ mắc nàn

Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn”



Chẳng biết người xưa là một vị chính nhân quân tử nào, hay là bao người dân nghèo không tên tuổi đã sống đẹp ngoài đời và sống đời trong ký ức của nhân dân.

Việc nghĩa ông làm là cứu sống và cưu mang Lục Vân Tiên. Tưởng tượng cảnh gia đình ông giành lại mạng sống Vân Tiên mà sao không vui đến rơi nước mắt:



“Hối con vầy lửa một giờ

Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày”



Lòng tốt của ông và vợ con không phân biệt tiểu nhân hay quân tử. Gặp người sắp chết, ông cứu. Gặp người đói, ông sớt cho ăn. Gặp người bơ vơ, ông rộng tình thương che chở. Giả như bấy giờ ,Vân Tiên đã đỗ khôi nguyên, được cứu rồi ra đi, chưa chắc ông đã kịp hay. Đối diện với ông, ai dám nói rằng đức nhân chỉ có ở người quân tử, ở bậc thánh nhân?



Ngay đến nhân vật Tiểu đồng, kẻ tôi tớ, thuộc loại tiểu nhân, cũng nghĩ suy và hành động đâu kém người quân tử. Chú tận tụy chăm sóc cho thầy, bôn ba tìm người chữa chạy để cứu thầy thoát khỏi nan y. Rồi khi ngỡ thầy qua đời, chú ở lại bìa rừng, che mồ tưởng nhớ, không ngớt khói nhang. Lo thầy ấm áp lúc sống, chú còn sợ thầy lạnh lẽo ở cõi bên kia. Tiểu đồng quả đã làm theo chữ Nghĩa của người xưa:



“Dốc lòng trả nợ áo cơm

Sống mà trọn nghĩa, thác thơm danh hiền”



Chỉ nghe những lời gan ruột này, ai có thể ngờ, đó là tiếng nói của một tiểu nhân trẻ người non dạ. Dường như Nguyễn Đình Chiểu muốn triệt để đề cao cái đẹp của nhân nghĩa, minh họa nó qua mọi thân phận, cảnh đời. Thành ra, rốt cuộc, nó chẳng còn là đặc quyền của bậc thánh nhân. Nó trở thành cái nhân, cái nghĩa của quần chúng lao động. Kẻ tiểu nhân còn thế, bậc quân tử sao thể kém thua. Đồ Chiểu đã mượn lời Tử Trực, Sở Vương để tiếp tục nói về nhân nghĩa. Đây là lời của Vương Tử Trực:



“Than rằng: chạnh nhớ linh xưa

Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình”



Nghe tai ương đến với bạn hiền, Tử Trực nhớ nghĩa thâm giao, tiếc tình cảm giao bôi chưa thỏa. Trong con người Tử Trực, nghĩa và tình không thể tách phân.Tình ngày trước thế nào, tình hôm nay vẫn tràn đầy bát nước. Trong nghĩa tình bằng hữu, dường như có cả đức thủy chung!
 

Bình luận bằng Facebook

Top