Tìm hiểu về đất nước trung quốc

cohonnhien

Thành viên
#1

Tự nhiên
Diện Tích 9,596,960 km vuông
Thủ Đô Bắc Kinh (Beijing)
Các thành phố lớn: Shanghai, Tianjin, Shenyang, Wuhan, Guangzhou, Chongqing, Harbin, Chengdu
Địa hình: Đồng bắng và đồi thấp ở phía đông, núi cao và sa mạc ở phí đông
Thời tiết: Nhiệt đới ở phía nam, và Cận vòng cực ở phía Bắc
TRUNG QUỐC DƯỚI CHẾ ĐỘ PHONG KIẾN.

ÐẶC ÐIỂM CƠ BẢN :

Là một quốc gia ra đời sớm (thiên niên kỷ III BC ), nhà nước phong kiến trung quốc ra đời sớm hơn các nhà nước phong kiến ở Tây âu (221BC).
Lịch sử phong kiến trung quốc trãi qua nhiều triều đại rất phức tạp :Tần ,Hán (đông-tây), Tam quốc, Ngũ đại, Nam -Bắc triều, Ðường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh,...
Kinh tế tự nhiên tự túc chiếm địa vị thống trị (có kinh tế hàng hóa, thương mại đô thị nhưng không tác động nhiều đến kinh tế Trung quốc) làm ảnh hưởng đến nền kinh tế hàng hóa, làm chậm sự ra đời của kinh tế tư bản chủ nghiã ở Trung quốc nói riêng và Phương Ðông nói chung.
Có một nền văn minh sớm và lâu đời. Nhân dân Trung quốc thời phong kiến đã xây dựng nên một nền văn hóa phát triển cao với những thành tựu rực rỡ, đóng gớp vào kho tàng của nền văn hóa thế giới những giá trị văn hóa độc đáo.
Ðấu tranh giai cấp thực sự là một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội Trung quốc. Mâu thuẩn chủ yếu trong xã hội vẫn là mâu thuẩn giữa địa chủ và nông dân .Những cuộc đấu tranh của quần chúng nhân dân, những cuôc khởi nghiã nông dân diễn ra thường xuyên trong các triều đại phong kiến, nó thật sự biến thành những cuộc chiến tranh nông dân, làm sụp đổ cả một triều đại phong kiến.

PHÂN KỲ LỊCH SỬ :

Lịch Sử chế độ phong kiến Trung quốc có thể chia làm 3 thời kỳ:
- Tần - Hán : Thời kỳ hình thành và củng cố chế độ phong kiến.
- Ðường - Tống : Thời kỳ chế độ phong kiến phát triền cao.
- Nguyên - Minh - Thanh : Thời kỳ suy tàn của chế độ phong kiến.

A- THỜI KỲ HÌNH THÀNH VÀ CỦNG CỐ CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

I - NHÀ TẦN ( 221 B.C - 207 B.C )

Thời Chiến quốc, ở Trung quốc có 7 nước lớn là : Yên , Tề, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn và Tần, trong đó từ giữa thế kỷ thứ IV B.C, Tần trở thành nước hùng mạnh nhất. Trong cuộc tổng tiến công cuối cùng diễn ra từ năm 230 đến năm 221 B.C, Tần đã lần lượt tiêu diệt sáu nước kia, hoàn thành việc thống nhất Trung quốc, trên cơ sở đó , triều đại phong kiến đầu tiên ở Trung quốc - triều Tần - được thành lập.

1- Những điều kiện để nhà Tần thống nhất Trung quốc :

a- Khách quan :
- Chiến tranh liên miên từ thời Xuân thu - Chiến quốc, đã phá hoại nền kinh tế Trung quốc, do đó yêu cầu thống nhất Trung quốc được đặt ra.
- Do yêu cầu về thủy lợi.
- Thống nhất để có thể chống ngoại xâm (quân Hung nô - một bộ phận của tộc Mông cổ, ở phương Bắc)
- Có những biến đổi quan trọng trong lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

b- Chủ quan :
- Cải cách của Thương ưởng đã đặt cơ sở để xây dựng chế độ phong kiến mới.
Thương Ưởng tên là Vệ Ưởng, nhưng do được phong đất ở Thương nên gọi Thương Ưởng. Ông được Tần Hiếu Công tin dùng, cải cách của Ông xác định chế độ mua bán ruộng đất, nhằm nâng đở địa chủ và thương nhân, để củng cố chính quyền và xây dựng lực lượng quân đội mạnh.
-Vua Tần ( Tần Thủy Hoàng ) được nhiều tướng tài và người tài giúp sức (như Lã Bát Vi, Lý Tư, Bạch Khởi,...).
- Giai cấp thống trị thấy cần phải thống nhất đất nước, thống nhất lực lượng để đối phó với quần chúng (qúi tộc cũ, thương nhân , địa chủ dù nội bộ chúng có mâu thuẩn)
Nhờ những điều kiện thuận lợi trên mà nhà Tần đã nhanh chóng đánh bại được 6 nước , thống nhất được Trung quốc.

2- Những chính sách của nhà Tần :
Năm 221 B.C, Vua Tần là Doanh Chính đã thống nhất toàn bộ lưu vực sông Hoàng hà và Trường giang, lên ngôi đặt hiệu là Tần Thủy Hoàng đế.

# Về kinh tế :
- Nông nghiệp :
Hoàng đế nắm quyền sở hữu ruộng đất tối cao, những người sử dụng ruộng đất phải nộp tô thuế và làm nghiã vụ lực dịch cho nhà nước (trừ qúi tộc và tăng lữ). Tuy nhiên nhà nước vẫn công nhận quyền tư hữu ruộng đất và không thu thuế ruộng đất tư.
Khuyến khích dân chúng khẩn hoang. Nhà nước quản lý, sửa sang các công trình thủy lợi, đê điều, xây dựng đường xá, cho đào con sông lớn gọi là Biện hà (huyện Khai phong- Tỉnh Hà nam) nối liền các dòng sông Tế, Nhữ, Hoài, Tứ ; khơi nhiều sông ngòi ở các miền thuộc đất Sơ, Ngô, Tề , Thục cũ, vừa đế tưới ruộng vừa để đi lại dễ dàng.
Nhờ những chính sách trên mà chỉ trong một thời gian, nông nghiệp được phục hồi và phát triển, đảm bảo được lương thực, đời sống của người dân dễ chịu hơn.

- Ðo lường , tiền tệ :
Nhà nước thống nhất chế độ đo lường, ban hành một loại tiền kim gọi là Tệ (thượng tệ bằng vàng, hạ tệ bằng đồng ), bãi bỏ các loại tiền bằng võ sò, vải lụa, mai rùa trước kia. Ban bố một chế độ thuế khoá chung rất cao.

# Về chính trị :
Quyền lực của hoàng đế cao nhất, tuyệt đối và toàn diện. Tần Thủy hoàng cho xây dựng một bộ máy thống trị quan liêu và được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương.

BỘ MÁY TRUNG ƯƠNG:

Gồm có: Hoàng Đế là người đứng đầu, dưới Hoàng Đế gồm có:
- Thừa Tướng: Hành chính và giúp Hoàng Đế giải quyết việc chính trị.
-Thái Úy : Quân sự.
-Ngự sử Đại phu:phụ trách văn thư và giám sát các quan.

Ngoài ra ở ở trung ương cón có các quan coi giữ binh mã, tiền tài, tư pháp.

Ở địa phương, Tần thủy hoàng không thi hành chế độ phân phong, mà chia cả nước thành 36 quận, mỗi quận lại chia thành nhiều Huyện. Ðứng đầu quận là Quận thú do hoàng đế chỉ định và có quyền bãi miễn, đứng đầu Huyện là Huyện Lệnh hay Huyện trưởng. Ngoài ra để gíam sát quận thú và mật báo tình hình trong quận với vua có quan Giám ngự sử.
Ở mỗi quận huyện cũng có các chức quan coi giữ binh mã, tiến tài và lương thực. Sự cai trị ở quận huyện là căn cứ theo pháp luật của nhà nước và những chỉ thị khác của triều đình.
Ngoài ra hoàng đế còn có một kực lượng quân đội khá mạnh, để giữ trật tự xã hội, đàn áp những cuộc khởi nghiã của nhân dân, những cuộc nổi loạn của phong kiến cát cứ, và tiến hành chiến tranh xâm lược bên ngoài.

# Về xã hội :
Nhà nước quản lý nhân dân trong nước tất chặc chẽ, gọi dân là đầu đen, biên chế dân theo hộ, gọi là hộ tịch , các Hương, Ðình, Lý ở địa phương căn cứ vào đó thu thuế, sưu dịch và trưng binh. ( Tô ruộng tính bằng thóc, thuế đinh tính bằng tiền).
Nhà nước quản lý chặt chẽ bọn qúi tộc thời chiến quốc, để tránh phản loạn, cát cứ. (nhà Tần đã dời 12 vạn qúi tộc cuả 6 nước về Hàm dương và phân tán vào Ba thục [ Tứ xuyên] , tịch thu toàn bộ binh khí và đồ đồng trong dân , đúc thành 12 pho tượng đồng, mỗi pho nặng 24 vạn cân- tương đương 120.000 kg).

# Về văn hóa - giáo dục :

Ðơn giãn và thống nhất chữ viết, hình thành một loại chữ tượng hình mới gọi lả chữ Tiểu triện & Lệ thư .

Ðề cao học thuyết Pháp gia cuả Hàn Phi Tử. Nhà nước lấy pháp luật làm công cụ cai trị và coi đó là công cụ thống trị chính thống, thẳng tay đàn áp những tư tưởng học thuật khác như phái Bách gia chư tử ( đốt hết sách vỡ của phái nầy).

Cấm luận bàn kinh Thi, Thư hai người dám bàn nhau về kinh thi kinh thu thì chém giữa chợ , cấm bàn chuyện xưa chê chuyện nay lấy chuyện đời xưa mà chê chuyện nay thì giết cả họ .

Bó hẹp giáo dục trong tầng lớp quan liêu, cấm mở trường học ở nhà riêng ( lối tự học trong dân gian bị bãi bỏ )

Pháp luật cai trị của Tần thủy hoàng là mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức ân nghiã . Có thể nói pháp luật của nhà Tần là vô cùng khắc nghiệt :

Ðồng thời với chính sách cai trị hà khắc, Tần Thủy Hoàng còn huy động sức người sức của để xây dựng những công trình qui mô, nhằm gây uy thế cá nhân và phục vụ cho nhu cầu xa xỉ của ông ta, như Vạn lý trường thành, Cung A Phòng, Lăng Ly sơn,...

Ngoài chính sách thống trị hà khắc trong nước, Tần Thủy Hoàng còn tiến hành những cuộc chiến tranh xâm lược ra bên ngoài. Năn 223 B.C , tấn công các tộc Việt ở phía nam, đến năm 214 B.C, chiếm phần lớn các tỉnh Phúc kiến, Quảng Ðông, Quảng Tây, lập nên 4 quận Mân trung , Nam hải, Quế lâm và Tượng. Nhưng khi tấn công sâu vào Âu lạc - tức nước ta, quân Tần đã bị thất bại nặng nề, tướng Tần là Ðồ Thư bị giết chết, nên cuộc tiến công xuống phía Nam của Tần bị chặn lại.

Ðến năm 210 B.C, Tần Thủy Hoàng chết trên đường đi xem xét các địa phương, thừa cơ hội, thừa tướng Lý Tư và hoạn quan Triệu Cao đã mưu giết người con trưởng của Tần Thủy Hoàng là Phù Tô, lập con thứ là Hồ Hợi lw6n làm vua, lấy hiệu là Nhị Thế.

Nghe theo lời phỉnh nịnh của Triệu Cao, Nhị Thế thẳng tay giết hầu hết các quan đại thần và các công tử, những viên quan nhỏ dưới trướng những người nầy cũng bị giết chết. Trong khi đó pháp luật trong nước lại càng nghiêm ngặt, do vậy mâu thuẫn trong xã hội vốn đã gay gắt lại càng thêm gay gắt.

3- Phong trào nông dân cuối Tần :

Sống dưới sự thống trị tàn bạo của nhà Tần, nhân dân Trung quốc vô cùng khổ cực. Ðại đa số nhân dân phải sống trong cảnh khốn cùng, đến nỗi phải mặc như bò ngựa, ăn như chó lợn. Bởi vậy lòng oán hận của nhân dân lên đến cao độ, chỉ còn chờ đợi thời cơ là đứng lên lật đổ nhà Tần.

Năm 209 B.C, Tần Nhị Thế huy động một đội lính thú gồm 900 người, trong đó có Trần Thắng và Ngô Quảng ở hương Ðại trạch đi trấn thủ ở Ngư Dương. Lúc bấy giờ đang là mùa mưa, đường xá lầy lội khó đi, nên họ không thể đến nơi đúng kỳ hạn. Trần Thắng và Ngô Quảng giết chết người chỉ huy và nói với đồng đội rằng :Các ông gặp mưa, đều đã sai lỳ hạn. Sai kỳ hạn đều bị tội chém. Dù có khỏi bị chém đi nu84a thì trong số mười người đi thì cũng chết mất sáu bảy. Vã chăng kẻ tráng sĩ không chết thì thôi chứ đã chết thì phải lừng lẫy tiếng tăm. Vương hầu khanh tướng há phải có dòng dõi mới làm nên sao ?. Ý kiến đó được mọi người hưởng ứng, và như vậy cuộc khởi nghiã nông dân cuối Tần bắt đầu bùng nổ.

Trần Thắng và Ngô Quảng vốn là những người nông dân nghèo, nhưng để tranh thủ sự ủng hộ của đông đảo quần chúng, Trần Thắng giả xưng là công tử Phù Tô, Ngô Quảng giả xưng là Hạng Yên, tướng cũ của nước Sở, vì đó là những người vốn được nhân dân có thiện cảm.

Tin khởi nghiã truyền đi, nhân dân nổi dậy giết chết quan lại quận huyện để hưởng ứng. Do đó lực lượng phát triển rất nhanh chóng. Từ hương Ðại Trạch, nghiã quân tiến đến đất Trần. Tại đây , theo ý kiến của các bô lão , kỳ mục và những người có tên tuổi, Trần Thắng tự xưng là Vua, lấy hiệu là Trương Sở (nghiã là mở rộmh nước Sở) lập chính quyền mới ở đất Trần. Ngay sau đó, Trần Thắng sai người dẫn quân đi chiêu hàng các lực lượng nổi dậy ở đất Triệu,đất Ngụy,...một mặt phái Ngô Quảng, Chu Văn, Tống Lưu, cầm đầu 3 đạo quân chia làm 3 mũi tấn công quân Tần.

Trong 3 cánh quân tiến về phía Tây, lực lượng do Chu Văn chỉ huy là đội quân mạnh nhất. Nhưng khi quân Chu Văn vừa tiến vào cửa Hàm cốc, thì bị tướng Tần là Chương Hàm đánh bại, nên cuối cùng Chu Văn phải đâm cổ tự tử.

Cánh quân do Ngô Quảng chỉ huy lúc đầu thu được một số thắng lợi, nhưng khi đánh thành Huỳng Dương do sự cố thủ của quân Tần, nghiã quân tấn công nhiều lần không hạ nổi. Trong tình thế ấy, Ðiền Tang cùng một số tướng lĩnh khác cho rằng Ngô Quảng kiêu ngạo, không biết binh quyền, bèn giả danh theo mệnh lệnh của Trần Thắng, giết chết Ngô Quảng rồi đem đầu dâng cho Trần Thắng. Sau đó Diền Tang được phong làm thượng tướng và trở thành kẻ chỉ huy của cánh quân nầy. Ông bố trí một số quân ở lại Huỳnh Dương, còn mình mang quân đi về hướng Tây để đánh quân Tần, nhưng cuối cùng toàn bộ cánh quân của Ông bị Chương Hàm đánh bại.

Nhân đà thắng lợi ấy, Chương Hàm đánh thẳng vào căn cứ điạ củ quân nông dân ở đất Trần. Trần Thắng bị thua phải bỏ chạy, cuói cùng bị tên đánh xe phản bội giết chết để đầu hàng Tần. Còn Tống Lưu, người chỉ huy cánh quân thứ 3, khi nghe tin Trần Thắng chết liền đầu hàng quân Tần, nhưng vẫn bị giải về Hàm Dương cho xe xé xác.

Như vậy sau nửa năm đấu tranh, cuộc khởi nghiã Trấn Thắng- Ngô Quảng đến đây bị thất bại. Tuy nhiên đó chỉ là kết thúc giai đoạn thứ nhất, chứ không phải phong trào khởi nghiã chống Tần đã bị dập tắc. Trái lại ngọn lửa đấu tranh do hai thủ lĩnh nông dân ấy nhóm lên đã bùng cháy và ngày càng lan rộng khắp cả nước.

Khi nghe tin Trần Thắng chết, để tranh thủ sự ủng hộ rộng rải của quần chúng, Hạng Lương lập một đứa cháu của Sở Hoài Vương lúc bấy giờ đang đi chăn dê lên làm vua và cũng gọi là Sở Hoài Vương. Chẳng bao lâu Hạng Lương bị Chương Hàm đánh bại. Thừa thắng Chương Hàm vượt Hoàng Hà đánh thành Cự Lộc ở đất Triệu, Hoài Vương cử Hạng Vũ đi giải vây cho thành Cự Lộc, đồng thời cử Lưu Bang tiến quân đánh đất Tần.

Tại đất Triệu, Hạng vũ đã nhanh chóng đánh tan quân Tần, Chương Hàm phải đầu hàng, do đó uy danh của Hạng Vũ trở nên lừng lẫy. Còn Lưu Bang khi vào đến Hàm dương thì vua Tần là Tử Anh xin hàng. Lưu Bang tuyên bố xóa bỏ luật pháp hà khắc của nhà Tần.

Khi nghe tin Lưu Bang làm chủ đưộc kinh đô của Tần, Hạng Vũ sợ Lưu Bang chiếm mất đất Tần cũ, bèn vội vàng kéo quân vào Hàm Dương, giết Tử Anh đã đầu hàng, đốt cung thất, thu của cải châu báu.

Thế là sau 15 năm kể từ khi Tần Thủy Hoàng lên ngôi hoàng đế, nhà Tần đã bị diệt vong.

II - NHÀ HÁN

1. Cuộc chiến tranh Hán - Sở & sự thành lập triều Tây Hán (206 B.C - 8 A.D)

Sau khi lật đổ nhà Tần, Hạng Vũ tôn Sở Hoài Vương lên làm hoàng đế, hiệu là Nghiã Ðế, còn mình thì tự xưng là Tây sở bá vương, đồng thời tiến hành phong đất phong vương cho các tướng lĩnh, thành lập 18 nước chư hầu.

Trước đó Sở Hoài Vương có nói rằng, ai vào được Quan Trung ( tức đất Tần cũ), thì được phong vương ở đó. Lưu Bang vào trước tiên nhưng Hạng Vũ không thực hiện lời hứa của Sở Hoài Vương, đem vùng nầy phong cho 3 hàng tướng của quân Tần là Chương Hàm, Tư mã Hân và Ðổng Ế, lập thành 3 vương quốc, còn Lưu Bang chỉ được phong làm Hán vương ở Hán trung , Ba Thục.

Lưu Bang giả vờ ngoan ngoãn kéo quân đến đất phong của mình, nhưng khi Hạng Vũ vừa đem quân về phía Ðông, thì Lưu Bang liền tiến quân lên phía bắc, đánh bại Chương Hàm, Tư mã Hân và Ðổng Ế, và chiếm được toàn bộ vùng Quan Trung.

Tiếp đó, nhân khi Hạng Vũ đem quân đánh Tề, Lưu Bang lại tiến sang phía đông, chiếm một số vương quốc rồi dẫn đại quân đi đánh Sở. Cuộc chiến tranh Hán - Sở chính thức bùng nổ.

Lúc đầu Lưu Bang bị thất bại nhiều lần, tuy nhiên về sau so sánh lực lượng dần dần có lợi cho Hán, nên cò thể giằng co với Sở. Ðến năm 202 B.C, nhận thấy lực lượng của mình hơn hẵn đối phương, Lưu Bang chủ động tấn công Sở, và cuối cùng trong trận Cai hạ, Hạng Vũ bị thua nên nhảy xuống sông Ô Giang tự tử.

Sau khi đánh bại được Hạng Vũ, Lưu Bang lên làm vua , hiệu là Hán Cao Tổ (206 - 195 B.C) đóng đô ở Lạc Dương, sau dời về Trường an.

2. Những cuộc đấu tranh trong nội bộ triều Tây Hán :

Khi nhà Hán mới thành lập, Hán Cao tổ bắt tay ngay vào chỉnh đốn mọi việc để củng cố ngai vàng của mình.

Ðối với nhân dân, Cao tổ chú ý đến việc khôi phục và phát triển nông nghiệp, khuyến khích dân trở về quê cũ làm ăn, trả tự do cho những người vì nghèo phải bán mình làm nô tỳ,...

Ðối với giai cấp địa chủ, nay trở về quê cũ thì được nhận lại đất, được khôi phục tước vị cũ, các quan đều được thăng tước một cấp.

Ðối với những người thân thích và các công thần, Cao Tổ phong đất và phong tước hiệu qúi tộc cho họ để tạo vây cánh cho mình.

Năm 195 B.C, Hán cao tổ chết, Huệ đế lên nối ngôi, nhưng mọi việc đều do Lữ Hậu ( Hoàng hậu của Lưu Bang ) quyết định .

Năm 188 B.C, Huệ đế chết, Lữ Hậu trở thành người cầm quyền như hoàng đế, đồng thời cho người họ Lữ nắm giữ binh quyền và các chức vụ quan trọng trong triều đình. Lữ Hậu còn thẳng tay giết chết nhiều người trong họ Lưu. Chính quyền họ Lưu đứng trước nguy cơ tiêu vong. Năm 180 B.C , Lữ Hậu chết, trong cung đình nổ ra cuộc chính biến, họ Lữ bị tước mọi quyền lựcm ngai vàng họ Lưu lại được củng cố. Tuy vậy cho đến giữa thế kỷ thứ II B.C, thế lực của các vương còn qúa mạnh, chính phủ trung ương thực tế chỉ cai trị được 15 quận, còn 39 quân do các vương khống chế. Vì vậy sau khi lên ngôi, Hán vủ đế (140- 87 B.C) đã thi hành nhiều chính sách nhằm tập trung mọi quyền hành vào chính phủ trung ương và đề cao hơn nữa uy quyền của hoàng đế.

Ðể làm suy yếu lực lượng các vương, Vũ đế ra lệnh cho các con thứ của các vương cũng được kế thừa đất phong và được phong tước hầu, thực chất là để chia nhỏ các vương quốc và để hoàng đế có thể quản lý một phần đất đai vốn thuộc các vương quốc, vì lãnh địa của tước hầu thuộc quyền quản lý của chính phủ trung ương.

Ngoài ra Vũ đế còn hạn chế quyền lực của thừa tướng, chia cả nước ra làm 13 khu giám sát gọi là Châu, đứng đầu là Thứ sử có quyền giám sát Quận Thú để trung ương khống chế các địa phương chặt chẽ hơn.

Về hệ tư tưởng, học thuyết của Lão Tử được tôn sùng, nhưng đến năm 136 B.C, Vũ đế ra lệnh bãi bỏ các học thuyết khác, chỉ đề cao Nho học. Từ đó học thuyết nầy trở thành công cụ tinh thần để bảo vệ chế độ phong kiến ở Trung quốc.

3. Triều Tân ( 9 - 23 ) :

Sau khi Vủ đế chết một thời gian, tình hình Tây Hán ngày càng rối ren. Ðến cuối thề kỷ I, quyền bính rơi vào tay ngoại thích họ Vương. Năm 8, ngoại thích Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, tự mình lên làm Vua, đặt tên triều đại mới là Tân.

Với mục đích cứu vãn tình hình nguy ngập cuối triều Tây Hán, xoa dịu mâu thuẩn xã hội, củng cố nền tống trị, Vương Mãng đã ban hành môtü số chính sách cải cách, gồm những nội dung chính sau :

· Tuyên bố tất cả ruộng đất đều thuộc nhà vua, gọi là Vương điền, nô tỳ thì gọi là tư thuộc, gia đình nào có dưới 8 người thì không được chiềm hữu qúa 900 mẫu đất, mỗi đinh nam được nhận 100 mẫu đất.

· Nhà nước độc quyền quản lý 8 thứ : Muối, sắt, nấu rượu, đúc tiền, rừng núi, ao hồ, thị trường và cho vay nợ.

· Thay đổi chế độ quan lại, đặt lại tên đất.

Những chủ trương của Vương Mãng phần thì không thực tế, phần thì đụng chạm đến quyền lợi của giai cấp địa chủ, phần thì gây nhiều xáo trộn trong xã hội, nên không thi hàng được. Những mâu thuẩn trong xã hội chẳng những không giải quyết được mà càng gay gắt thêm. Vì vậy triều Tân của Vương Mãng không tránh khỏi sụp đổ.
 

cohonnhien

Thành viên
#2
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p2)

4. Phong trào chiến tranh nông dân Xích Mi -Lục Lâm & sự thành lập triều Ðông Hán ( 25 - 220 ):

Cải cách của Vương Mãng không thành công, giai cấp địa chủ vẫn chiếm nhiều ruộng đất, thêm vào đó thiên tai như hạn hán , Châu chấu cắn lúa xảy ra khắp nơi, nên làm cho nông dân đói khổ, nên nhiều nơi nông dân nổi dậy khởi nghiã.

Năm 17, dưới sự lãnh đạo của Vương Khuông, nhân dân ở Hồ Bắc đã tập hợp thành một lực lượng đóng trên núi Lục Lâm, nên gọi là quân Lục Lâm. Năm 22, quân Lục Lâm rời khỏi căn cứ địa ra ngoài hoạt động, được sự họp tác của số địa chủ như Lưu Huyền, Lưu Diễn, Lưu Tú, nên lực lượng ngày càng lớn mạnh.

Năm 23, sau khi đánh thắng quân Vương Mãng, Lưu Huyền lên làm hoàng đế, lấy hiệu là Cánh Thủy, đặt tên nước là Hán, đóng đô ở đất uyển ( Hà Nam). Ngay năm đó quân Lục Lâm chia làm hai đạo quân đi đánh Lạc Dương và Trường An, khi quân Lục Lâm chưa đến nơi thì ở Trường an xãy ra cuộc binh biến, Vương Mãng bị giết chết. Ðầu năm 24, Lưu Huyền vào làm vua Trường An.

Trong khi quân Lục Lâm nổi dậy ở Hồ Bắc, thì ở Sơn Ðông, dưới sự lãnh đạo của Phàn Sùng, nông dân cũng nội dậy khởi nghiã.

Năm 22, Vương Mãng điều 10 vạn quân đến đàn áp. Ðể phân biệt với địch ,nghiã quân tô đỏ lông mày, nên gọi là quân Xích mi. Quân Xích mi đã đánh quân Vương Mãng thất bại nhiều lần. Năm 23, Phàn Sùng và các tướng lĩnh khác được Lưu Huyền phong hầu.

Năm 25, lực lượng của quân Mày đỏ phát triển lên 35 vạn. Họ muốn lập một người trong dòng họ nhà Hán lên làm hoàng đế. Trong hàng ngũ nghiã quân có 3 người có họ gần gũi với nhà Hán, rồi bằng phương pháp bốc thăm, Lưu Bồn Tử, vốn là một chú chăn bò 15 tuổi được cử lên làm vua.

Trong khi đó Lưu Huyền ngày càng xa rời quần chúng, nên xãy ra xung đột nội bộ giữa các tướng lĩnh xuất thân nông dân và các tướng lĩnh xuất thân địa chủ. Nên khi quân mày đỏ tiến sang phía Tây, các tướng lĩnh xuất thân là nông dân trong quân Lục Lâm đã phối hợp với quân Mày đỏ tấn công Trường an, Lưu Huyền phải đầu hàng, Lưu Bồn Tử tiếp quản Trường an.

Tuy làm chủ được kinh đô, nhưng nghiã quân bị bao vây kinh tế, nên buộc phải rút khỏi Trường an.

Ngoài hai trung tâm Hồ Bắc và Sơn Ðông, lúc bấy giờ ở Hà Bắc cũng có những cuộc khởi nghiã nhỏ. Năm 23 Lưu Tú được Lưu Huyền phái đế đây để phát triển lực lượng, với sự ủng hộ của một số quan lại và địa chủ địa phương, Lưu Tú lập được căn cứ của mình, tiêu diêt các nhóm khởi nghiã khác, làm chủ được vùng Hồ Bắc, tấn công Lưu Huyền, chiến được Lạc Dương.

Năn 25, Lưu Tú xưng làm hoàng đế, hiệu là Quang vũ đế, đặt tên nước là Hán, đóng đô ở Lạc dương, lịch sử gọi là Ðông Hán.

5. Tình hình thời Ðông Hán & Phong trào nông dân Khăn Vàng :

Ðầu thời Ðông Hán, Quang vũ thi hành nhiều chính sách tích cực như giãm thuế từ 1/10 xuống 1/30, phục viên binh lính để tăng thêm ngươp nhập huyện để bớt quan lại, xây dựng các công trình thủy lợi,... nhờ vậy tình hình xã hội tương đối ổn định.

Ðối với bên, nhà Ðông Hán tiến hành xâm lược nước ta năm 40, và đến năm 43, đặt ách đô hộ lên nước ta một lần nữa. Ðối với Tây vực, nhà Hán đánh Hung nô.

Tuy nhiên sự ổn định của nhà Ðông Hán không duy trì được lâu, sang thế kỷ II, trong triều đình thường xuyên diễn ra những cuộc tranh giành quyền lực giữa ngoại thích và hoạn quan, do đó tình hình chính trị hết sức rối ren. Ở các địa phương, giai cấp địa chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất, lập thành những điền trang rộng lớn. Trong khi đó thiên tai thường xuyên diễn ra, làm cho đời sống nhân vô cùng khốn khổ, vì vậy nông dân đã nhiều lần khởi nghiã và đến cuối thế kỷ II, dưới sự lãnh đạo của Trương Giác, một cuộc chiến tranh nông dân đã bùng nổ.

Trương Giác vốn là thủ lĩnh của giáo phái Ðạo giáo lưu hành trong dân gian gọi là đạo Thái bình, chủ trương dùng tàn hương và nước lã chữa bệnh. Ðể chuẩn bị khởi nghiã, Trương Giác chia tín đồ thành 36 phương, mỗi phương trên dưới 1 vạn người và cử tướng lĩnh đến chỉ huy. Ðồng thời ông cón sai người đi tuyên truyền câu sấm : Trời xanh sắp chết, trời vàng đang lập, đến năm Giáp tý, thiên hạ tốt lành.

Năm 184 (năm Giáp tý), Mã Nguyên Nghiã, thủ lĩnh một phương lớn được giao nhiệm vụ tổ chức khởi nghiã, nhưng kế hoạch bị bại lộ. Bởi vậy, Trương Giác quyết định cả 36 phương phải khởi sự trước thời gian dự định. Quân khởi nghiã đầu trích khăn vàng để làm dấu hiệu riêng nên gọi là quân khăn Vàng. Khắp nơi, họ tấn công thành ấp, đốt phá dinh thự.

Hoảng sợ trước sự đấu tranh của nông dân, chính phủ Ðông Hán và các tập đoàn quân phiệt ở các địa phương đã huy động toàn bộ lực lượng để đàn áp. Quân Khăn Vàng chiến đấu rất ngoan cường, nhưng đến cuối năm 184 bị Hoàng Phủ Tung đánh bại. Trương Giác trước đó đã ốm chết, 5 vạn nghiã quân không chịu khất phục nên nhảy xuống sông tự tử, 13 vạn người khác bị quân Hoàng Phủ Tung giết chết. Mộ của Trương Giác bị quật lên, cắt đầu đưa về kinh đô. Sau khi quân chủ lực của quân Khăn Vàng thất bại, nông dân các nơi khác vẫn tiếp tục đấu tranh 20 năm nữa mới hoàn toàn bị dập tắt.

Như vậy, triều Ðông Hán vẫn chưa bị phong trào nông dân lật đổ, nhưng từ đó lại càng thêm suy yếu. Vua Ðông Hán chỉ là bù nhỉn trong tay các tướng quân phiệt và đến năm 220 thì phải nhường ngôi cho họ Tào.

III. THỜI KÌ TAM QUỐC : NGỤY, THỤC, NGÔ ( 220 - 280 )


1. Cuộc nội chiến dưới thời Ðông Hán:

Cuối đời Ðông Hán, nhân khi chính quyền trung ương auy yếu, trật tự xã hội hỗn loạn, các quan lại châu quận và các nhà hào phú ở địa phương đã phát triển lực lượng vũ trangcủa mình trở thành những tập đoàn quân phiệt chiếm cứ các nơi trong nước.

Ở triều đình, sau khi đàn áp được phong trào khăn vàng, cuộc đấu tranh giữa các thế lực chính trị khác nhau vẫn tiếp diễn. Năm 189, Hán linh đế chết. Kẻ nắm quyền binh là đại tướng quân Hà Tiến (anh của Hà hoàng hậu ) ngầm liên kết với các tướng quân phiệt Viên Thiệu, Ðổng Trác để tiêu diệt bọn quan hoạn, nhưng việc chưa thành thì bị bọn quan hoạn giết chết. Với binh lực trong tay, Viên Thiệu giết hơn hai ngàn quan hoạn, nhưng ngay sau đó đổng Trác kéo quân vào kinh đô nắ lấy mọi quyền hành trong triều đình. Năm 192, Ðổng Trác bị một viên tướng của mình là Lữ Bố giết. Từ đó, cuộc nội chiến giữa các thế lực quân phiệt càng lan rộng và quyết liệt, còn vua đông Hán và hiến đế (năm 190 - 220 ) thì hết bị tập đoàn quân phiệt này đến tập đoàn quân phiệt khác thao túng. Năm 196, Tào Tháo, một kẻ rất tích cực trong việc đánh Ðổng Trác và nhanh chóng phát triển lực lượng của mình nhờ thu nạp được 30 vạn quân Khăn vàng đã khống chế được chính quyền Ðông Hán.

Năm 200, Tào Tháo đánh thắng Viên Thiệu ở trận Quan Ðộ rồi thu tóm cả miền Bắc Trung Quốc. Lúc bấy giờ, ở miền Nam có hai lực lượng đáng chú ý là Tôn Quyền và Lưu Bị. Năm 208, Tào Tháo đưa 30 vạn quân xuống giao chiến với 5 vạn quân của Tôn Quyền và Lưu Bị ở trận Xích Bích nhưng thất bại nặng nề.

Sau trận đánh nổi tiếng này, Lưu Bị tiến về phía Tây, tạo thành ba thế lực đối địch nhau : Tào Tháo ở phía bắc, Tôn Quyền ở Ðông nam, Lưu Bị ở Tây nam.

2. Sự thành lập và diệt vong của ba nước Ngụy, Thục, Ngô :

Năm 220, Tào Tháo chết, con là Tào Phi bắt Hán đế phải nhường ngôi cho mình, nhà Ðông hán diệt vong. Tào Phi lên làm vua, đóng đô ở Lạc dương, đặt là Ngụy.

Năm 221, Lưu Bị cũng xưng làm hoàng đế, đóng đô ở Thành đô, lấy quốc hiệu là Hán, lịch sử thường gọi là Thục.

Năm, 222, Tôn Quyền xưng vương (đến năm 229 cũng xưng đế ), đóng đô ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh sau này ), đật tên nước là Ngô.

Thế là, bắt đầu từ năm 220, lịch sử Trung Quốc chính thức bước vào thời kìTam Quốc

Trong ba nước này, Ngụy là nước mạnh nhất, do đó tuy giữa thục và ngô, trước đây từng xãy ra chiến tranh, nên vì quyền lợi sống còn nên hai bên phải thân thiẹn với nhau để chống lại Ngụy. Sau mấy chục năm giằng co với nhau, đến năm 263, Thục bị Ngụy tiêu diệt. Năm 265, ở miền bắc, triều Tấn thay triều Ngụy. Ngay sau đó, Tấn lấy đất Thục làm căn cứ quân sự để đóng chiến thuyền, huấn luyện thủy quân, chuẩn bị đánh Ngô. Năm 280, Ngô bị Tấn tiêu diệt. Trung Quốc lại được thống nhất.

B - THỜI KỲ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC

IV.TRIỀU ÐƯỜNG


1. Sự thành lập triều Ðường và nền thịnh trị thời Ðường Thái Tông:

Sau khi Tùy Dượng đế chạy khỏ kinh đô, năm 617, một viên quan của nhà tùy tên là Lý Uyên cùng với con mình là Lý Thế Dân khởi binh ở Thái Nguyên (Sơn Tây ) rồi tấn công Trường An. Năm 618, Lý Uyên xưng làm vua, hiệu là Cao Tổ, đặt quốc hiệu là Ðường.

Tiếp đó, Ðường tập trung lực lượng để đánh bại quân nông đân và tàn quân của Tùy. Ngay năm 618, Lý Mật phải đầu hàng, đến năm 621, Ðậu Kiến Ðức cũng bị Lý Thế Dân đánhbại và bị bắt, lực lượng hoàn toàn tan rã. Sau 10 năm chẳng, đến năm 628, mọi thế lực các cứ đều bị tiêu diệt, Trung Quốc lại hoàn toàn thống nhất.

Trong quá trình ấy, năm 626 do ghen tị, người con trưởng của Lý Uyên là Lý Kiến Thành và người con thứ là Lý Nguyên Cát đã tổ chức đầu độc Lý Thế Dân nhưng không thành công, do đó đã bị Lý Thế Dân và vây cánh giết chết ở cửa Huyền Vũ của hoàng thành. Cũng năm đó, Lý Uyên thoái vị, Lý Thế Dân lên nối ngôi, hiệu là Thái tông.

Phong trào đấu tranh của nhân dân và sự diệt vong của các triều đại trước đã làm cho Ðường thái tông nhận thức được rằng: thuyền ví như vua, nước ví như dân, nước có thể chở thuyền, cũng có thểlật thuyền..

Ông còn nói : Tai họa của vua không phải từ bên ngoài đến mà thường tự mình mà ra. Nếu muốn phô trương thì phải chi tiêu rộng, chi tiêu rộng thì phải thu thuế nặng, thu thuế nặng thì dân sầu oán, dân sầu oán thì nước nguy, nước nguy thì vua chết..

Chính nhờ hiểu được như vậy, nên Ðường thái tông đã thi hành nhiều chính sách có lợi cho dân như thi hành chế độ quân điền, giảm bớt lao dịch, hạn chế lãng phí, giảm nhẹ hình phạt, chọn quan lại thanh liêm... Do đó, chỉ sau mấy năm, kinh tế được khôi phục và phát triển, chính trị ổn định, lịch sử Trung Quốc gọi là nền thịnh trị thời Trinh Quán ( niên hiệu của Thái tông từ 627 - 649 ).

2. Sự chuyên quyền của nữ hoàng Vũ Tắc Thiên

Năm 649, Ðường Thái Tông chết. Cao Tông, lên nối ngôi, là một người nhu nhược ốm yếu, nên đần mọi việc đều do hoàng hậu Vũ Tắc Thiên quyết định.

Vũ Tắc Thiên là con một công thần của nhà Ðường. Năm 14 tuổi vào làm một chức nữ quan trong cung Ðường thái tông. Thái tông chết, Vũ Tắc Thiên được bố trí cho vào chùa đi tu rồi ít lâu sau được đón về làm cung phi của Ðường Cao Tông. Là một phụ nữ xinh đẹp, khôn ngoan, xảo quyệt, tàn nhẫn, cương quyết lại biết nhẫn nhục chờ thời, đến năm 655, Vũ Tắc Thiên giành được ngôi hoàng hậu.

Năm 683, Cao Tông chết, Trung Tông, Duệ Tông lần lượt được cử lên làm vua bù nhìn, nhưng mọi quyền hành đều nằm trong tay thái hậu họ Vũ. Tuy vậy, vẫn chưa thỏa mãn, nên đến năm 690 Vũ Tắc Thiên chính thức xưng làm hoang đế, đổi quốc hiệu thành Chu (690 - 705 ).

Trong suốt mấy chục năm chấp chính, nhất là sau khi làm vua, Vũ Tắc Thiên thẳng tay khủng bố những quí tộc chống đối bằng những nhục hình vô cùng thảm khốc. Kết quả là rất nhiều tôn thất, quý tộc, công thần bị giết hại. Trong khi đó, nhân dan phải gánh chịu những nghĩa vụ thuế khóa, lao dịch, binh dịch nặng nề hơn trước, lại bị bọn quan lại tham ô tàn bạo nhũng nhiễu, hà hiếp, nên đời sống ngày càng cực khổ.

Năm 705, Vũ Tắc Thiên ốm nặng, trong cung nổ ra chính biến. Vũ Tắc Thiên buộc phải thoái vị. Triều Chu ngắn ngủi của vị nữ hoàng đế duy nhất trong lịch sử Trung Quốc kết thúc.

3. Những cuộc chiến tranh xâm lược đầu đời Ðường:

Ðến đời Ðường Thái tông, Trung Quốc lại bước vào một thời kì thống nhất ổn định. Với điều kiện ấy, nhà Ðường lại phát động nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các nước xung quanh.

Ơí phía bắc, Thái tông lần lược chinh phục Ðông Ðột Quyết và Tiết Diên Ðà. Vào cuối đời Tùy, thế lực của Ðông Ðột Quyết tương đối mạnh, đã từng đưa hai ngàn kỵ binh và một ngàn con ngựa giúp Lý Uyên trong cuộc nổi dậy chống Tùy nhưng sau khi nhà Ðường thàh lập, Ðông Ðột Quyết thường xuyên tấn công Trung Quốc. Ðến năm 629, nhân khi nội bộ Ðông Ðột Quyết có nhiều mâu thuẫn gay gắt, Thái tông đã liên minh với Tiết Diên Ðà cư trú ở phía bắc sa mạc Gô Bi cùng tấn công Ðông Ðột Quyết. Năm 630, Ðông Ðột Quyết thua, quốc vương của họ bị bát, quốc gia tan rã.

Sau khi Ðông Ðột Quyết diệt vong, thế kực của Tiết Diên Ðà mạnh hẳn lên. Lo ngại trước tình hình đó, nhà Ðường lại khôi phục nhà nước cho người Ðột Quyết để tạo nên một thế đệm ở giữa Ðường và Tiết Diên Ðà. Năm 641, nhân khi Tiết Diên Ðà tấn công Ðột Quyết, nhà Ðường đem 10 vạn quân đánh Tiết Diên Ðà. Tiết Diên Ðà phải rút lui. Năm 646, nhân khi nội bộ Tiết Diên Ðà lục đục, Ðường lại tấn công Tiết Diên Ðà. Quốc vương nước này bỏ chạy, sau bị Hồi Hột giết chết.Tiết Diên Ðà diệt vong. Ngay năm ấy, nhà Ðường thiết lập ở đây một cơ quan cai trị gọi là An bắc đô hộ phủ.

Về phía tây, năm 635, nhà Ðường thôn tính Ðột Dục Hồn, năm 640, chiếm được nước Cao Xương rồi thành lập ở đây An tây đô hộ phủ. Tiếp đó, Ðường chiếm thêm một số nước, một số nước nhỏ bế khác phải thuần phục.

Ơí phía đông bắc, lúc bấy giờ mâu thuẫn giữa ba nước Cao Câu Li, Bách Tế và Tân La rất gay gắt. Riêng ở Cao Câu Li, năm 642, Tuyền cái Tô Văn giết vua Cao Vũ rồi lập Cao Tạng lên ngôi, còn tự mình thì làm Mạc li chi ( tương tự như tể tướng ) và nắm lấy mọi quyền binh.

Năm 643, Tân La bị liên quân Cao Lâu Li và Bách tế tấn công, nên sai sứ sang Trung Quốc cầu viện. Nhân cơ hội ấy, dưới chiêu bài để :báo thù cho con em Trung Quốc và rữa nhục cho vua cha của Cao Li, Ðường Thái tông quyết định tấn công Cao Câu Li.

Với 10 vạn quân thủy bộ và năm trăm chiến thuyền, năm 645, Ðường Thái tông tự mình chỉ huy cuộc viễn chinh. Tần La cũng đem 5 vạn quân phối hợp tác chiến. Quân Ðường vây thành An Thị ( ở Liêu Ninh, Trung Quốc ngày nay ) 88 ngày không hạ được, lực lượng bị tổn thất nhiều, nên phải rút quân.

Cay cú vì thất bại, Ðường Thái tông định đánh Cao Lâu Li một lần nữa, nhưng sau khi bàn luận, cả triều đình cho rằng : Cao Li dựa vào núi làm thành, tấn công không thể hạ nhanh được . Vì vậy, vua quan nhà Ðường chủ trương thay đổi chiến lược sai những đội quân nhỏ thay nhau quấy nhiễu biên giới làm cho nhân dân Cao Li mỏi mệt vì phải trốn tránh, bỏ cày cuốc để vào trong đồn lũy, sau mấy năm thì cả ngàn dặm bị tiêu điều, đo đó lòng người tự li tán. Ðến lúc ầythi vùng phía bắc sông Aïp Lục có thể không cần đánh cũng lấy được.

Ngay sau đó, nhà Ðường nhiều lần đưa những độiquân từ 1 đến 3 vạn người sang đánh phá các thành của Cao Lâu Li rồi rút về. Năm 649, Ðường Thái tông chết, mưu đồ chinh phục Triều Tiên phải tạm gác lại.

Ðến thời Ðường Cao tông( 650 - 683 ), sự xung đột giữa các nước ở Triều Tiên vẫn tiếp diễn. Với sự giúp đở của Cao Lâu Li, Bách Tế nhiều lần xâm lược Tân La. Vì vậy, năm 660, Tân La lại cầu cứu nhà Ðường một lần nữa.

Lần này, nhà Ðường đưa 10 vạn quân thủy bộ sang đánh Bách Tế. Bách Tế diệt vong.

Ơí Cao Lâu Li, năm 666, Tuyền cái Tô Văn chết. Vì tranh giành quyền lựa, giữa các con ông đããy ra xung đột vũ trang. Nhân cơ hội ấy, năm 667, nhà Ðường phái quân sang tấn công Cao Lâu Li. Năm 668, Cao Lâu Li thất bại, phải đầu hàng.

Trên đất đai mới chiếm được, nhà Ðường thành lập An đông đô hộ phủ ở Bình nhưỡng. Nhưng chỉ sau 8 năm, do sự đấu tranh của nhân dân Triều Tiên dưới sự lãnh đạo của Tân La, năm 676, thế lực của Ðường phải rút khỏi bán đảo và phải dời An đông đô hộ phủ về Liêu Ðông.

Như vậy , trải qua gần 40 năm, các vua đầu đời Ðường đã thôn tính được nhiều nước xung quanh lập thành một đế quốc rộng lớn vào bậc nhất thế giới đương thời.
 

cohonnhien

Thành viên
#3
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p3)

4. Vụ loạn An Sử và sự suy thoái của nhà Ðường:

Sau khi Vũ Tắc Thiên thoái vị, Trung Tông lại được, nhà Ðường được khôi phục. Tuy vậy, tình hình trong triều rất rối ren, chỉ trong 7 năm, chính biến xãy ra nhiều lần, ba vua được lập lên rồi bị phế truất.

Năm 712, Huyền Tông lên ngôi. Trong thời kì đầu, Huyền Tông tỏ ra là một ông vua có năng lực, đã thi hành một số chính sách nhằm ổn định tình hình trong cả nước. Về chính trị, Huyền tông chỉnh đốn lại bộ máy chính quyền ở trung ương và địa phương, phái các vương đi làm Thứ sử ở các châu để họ khỏi gây chính biến ở kinh đô. Về kinh tế, ông rất chú ý đến việc sản xuất và tiếït kiệm như ra lệnh ngừng một số công trình xây dựng, phái quan lại về địa phướng đôc thúc việc diệt châu chấu cắn lúa, cấm tìm ngọc dệt gấm, bỏ các xưỡng dệt gấm ở hai kinh đô Trường An và Lạc Dương, thậm chí còn ra lệnh đốt hủy tất cả châu ngọc gấm vóc.

Qua một thời gian, trật tự xã hội ngày càng ổn định, kinh tế phát triển, chính quyền nhà Ðường vững vàng, Trung Quốc bước vào một thời kì phồn thịnh gọi là nền thịnh trị thời Khai Nguyên - Thiên Bảo ( hai niên hiệu của Huyền Tông năm 713 - 755 ).

Nhưng đến cuối đời Huyền Tông say đắm Dương Quý Phi, mọi việc trong triều đều giao cho Dương Quốc Trung ( anh của Dương Quý Phi ) và những người thân tín khác, do đó những người này tha hồ làm mưa làm gió ở kinh đô.

Ơí các địa phương, giai cấp địa chủ tăng cường chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, chế độ quân điền tan rã, thế lực của các tiết độ sứ ở các vùng biên cương phát triển, mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa trung ương và địa phương trở nên sâu sắc.

Trong hoàn cảnh ấy, năm 755, An Lộc Sơn và Sử Tư Minh khởi binh chống Ðường, sử sách gọi là loạn An Sử.

An Lộc Sơn vốn là người Hồ, nhờ có nhièu chiến công được phong làm tiết độ sứ ba trấn rồi được phong làm Ðông bình quận vương.

Dưới chiêu bài giết Dương Quốc Trung, nhưng thực chất là giành lấy ngai vàng của nhà Ðường, từ Phạm Dương ( Hà Bắc ), An Lộc Sơn tiến quân nhanh chóng xuống Lạc Dương rồi tiến sang Trường An. Huyền tông cùng triều đình phải chạy sang Tứ Xuyên. Vừa mới đến Mã Ngôi ( Thiểm Tây ), theo yêu cầu của quân sĩ, Huyền tông buộc lòng phải cho giết Dương Quốc Trung và Vương Quý Phi.

An Lộc Sơn chiếm được Trường An, nhưng từ đó nội bộ thường xãy ra những vụ chém giết lẫn nhau để tranh quyền. Còn nhà Ðường thì vừa khẩn trương tập hợp lực lượng vừa mượn viện binh của Hồi Hột để lấy lại Trường An. Cuối năm 754, Ðường chiếm lại được hai kinh, nhưng đến năm 759, một lần nữa Lạc Dương lại Rơi vào tay quân phiến loạn, mãi đến năm 762, với sự giúp đở của Hồi Hột, Ðường mới thu hồi được thành phố này. Ðến đây, hàng ngũ quân phiến loạn tan rã, nhiều tướng lĩnh đầu hàng nhà Ðường, đến năm 763 thì hoàn toàn thất bại.

Vụ loạn An Sử đã để lại rất nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều vùng cư dân trù mật trở nên hoang vắng không có bóng người. Ðây cũng là cái mốc đánh dấu nhà Ðường từ chổ thịnh trị bước vào thời kì suy yếu. Từ đó về sau trong triều đình, vua Ðường chỉ làm bù nhìn, mọi quyền hành đều do hoạn quan lũng đoạn. Bọn quan hoạn có thể tự ý phế lập các vua, khống chế các quan từ tể tướng trở xuống. Bị hoạn quan o ép, các quan trong triều lần lần liên kết với nhau để chống lại, nhưng đều bị thất bại. Ơí các địa phương, thế lực các Tiết độ sứ ngày càng lớn mạnh, trở thành những lực lượng các cứ độc lập không chịu sự quãn lí của chính phủ trung ương.

Trong quá rình đó, nhà Ðường lại bị Thổ Phồn và Nam Chiếu tấn công và chiếm mát nhiều đất đai. Từ thế kỉ thứ VII, Thổ Phồn ( tiền thân của Tây Tạng ) trở thành một quốc gia thống nhất hùng mạnh và đã nhiều lần đánh bại quân Ðường. Năm 763, sau khi chiếm được một vùng rộng lớn ở Tây Bắc Trung Quốc, Thổ Phồn đem 20 vạn quân tiến sang phía đông cướp phá Trường An 15 ngày rồi rút lui.

Còn Nam Chiếu là quốc gia của tộc bạch ở Vân Nam thành lập vào thế kỉ thứ VIII. Lúc đầu Nam Chiếu cũng thuần phục nhà Ðường, nhưng sự tàn ác của bọn quan lại Trung Quốc đã đẩy họ chuyển sang thuần phục Thổ Phồn. Do vậy, nhà Ðường đã hai lần sai quân đi đánh Nam Chiếu nhưng toàn quân bị tiêu diệt. Năm 829, Nam Chiếu tấn công vào nước Thục đến tận Thành Ðô, cướp bóc trong 10 ngày và bắt đem đi hàng vạn thợ thủ công Trung Quốc. Mối đe dọa của Nam Chiếu kéo dài mãi cho đến khi nhà Ðường diệt vong.

5. Phong trào chiến tranh nông dân cuối đời Ðường.

Sau loạn An Sử, chế độ quân điền bị phá hoại, hiện tượng tập trung ruộng đất vào tay các địa chủ ngày càng trầm trọng, do đó kẻ giàu có ruộng hàng vạn mẫu, người nghèo không có chổ đặt chân.

Thuế khóa cũng là một gánh nặng mà nhân dân không thể chịu đựng nổi. Ðến kì thu thuế, nhân dân thường phải dỡ nhà bán ngói bán gỗ hoặc cầm vợ bán con để lấy tiền đong thóc nộp thuế, nhưng nhiều khi các thứ đó chỉ mới đủ dọn cơm rượu thết đãi bọn quan lại về thu thuê, chứ chưa có gì nộp vô kho nhà nước. Gặp năm mất mùa, nhân dân phải ăn lá hòe trừ cơm, những người già yếu không đi kiếm được, đành phải chịu chết đói.

Ngoài ra, nhân dân còn phải chịu nhiều nổi khổ khác như không có muối mà ăn vì muối cũng như rượu, chè đều do nhà nước độc quyềnmua bán hoặc bị quan hoạn tự do cướp hàng hóa ngoài chợ...

Sự khốn khổ cùng cực của nhân dân là nguyên nhân trực tiếp dẩn đến các cuộc khởi nghĩa liên tiếp cuối đời Ðường.

Năm 874, phong trào khởi nghĩa nông dân lớn bùng nổ ở Sơn Ðông. Lúc bấy giờ ở vùng này, đê Hoàng Hà bị hỏng, nạn lụt xãy ra luôn, vụ thu năm đó hầu như mất trắng; mặt khác chính phủ quãn lí muối rất chặt, giá muối cao. Vì vậy đời sống của nhân dân ở đây càng cực khổ.

Người lãnh đạo lúc đầu là Vương Tiên Chi, một người buôn muối lậu. Quân khởi nghĩa truyền lệnh lên án nhà Ðường thối nát, quan lại tham nhũng, thuế khóa nặng nề. Chẳng bao lâu nghĩa quân đã chiếm nhiều nơi ở Sơn Ðông.

Năm 875, Hoàng Sào cũng triệu tập được mấy ngàn người nổi dậy hoạt động ở Sơn Ðông rồi gia nhập lực lượng của Vương Tiên Chi. Từ đó, hàng ngũ nghĩa quân phát triển nhanh chóng, địa bàn hoạt đọng từ Sơn Ðông mở rộng đến vùng Hà Nam, Hồ Bắc, An Huy.

Từ đó, Hoàng Sào trở thành người lảnh đạo chủ yếu của phong trào. Ðể tránh chổ mạnh của địch, năm 878, Hoàng Sào quyết địn htiến hành cuộc trường chinh xuống miền Nam, nơi đang tồn tại nhiều thế lực cát cứ, lực lượng giai cáp phong kiến không thống nhất.

Xuất phát từ Hà Nam, quân Hoàng Sào đi qua Sơn Tây, An Huy, Triết Giang, Phúc Kiến đến Quãng Ðông. Do không quen khí hậu miền Nam,nghĩa quân bị ốm chết mất ba bốn phần mười, nên cuối năm 879, từ phía đông, Hoàng Sào lại kéo quuân trở lên miên Bắc. Khi quân nông dân tiến gần đến Trường An, triều đình nhà Ðường hoảng sợ bỏ kinh thành chạy sang Tứ Xuyên. Năm 880, quân Hoàng Sào tiến vào kinh đô. Năm 881, Hoàng Sào tự xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Ðại Tề.

Trước tình hình ấy, giai cấp phong kiến liên hợp với nhau để bao vây Trường An. Quân nông dân cầm cự được hơn 2 năm, đến năm 883, phải rút về Hà Nam, Sơn Ðông, đến năm 884, thì bị quân Ðường đánh bại. Hoàng Sào tự tử.

Như vậy, phong trào khởi nghĩa này chưa lật đổ được nền thống trị của nhà Ðường, nhưng làm cho đế quốc Ðường ngày càng bị chia năm xẻ bảy, trong cung đình càng hổn loạn, nhà Ðường chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa mà thôi.

V. THỜI KÌ NGŨ ÐẠI ( 907 - 960 )


1. Thời kỳ Năm đời Mười nước :

Năm 882, một viên tướng của Hoàng Sào là Chu Ôn đầu hàng nhà Ðường, được nhà Ðường cho đổi tên thành Chu Toàn Trung và giao cho quyền cao chức trọng, dần dần trở thành một thế lực quân phiệt hùng mạnh. Năm 900, Ðường Chiêu Tông có mưu toan chống lại tập đoàn quan hoạn nên bị quan hoạn cầm tù. Tể tướng Thôi Dận, do đó mời ChuToàn Trung đem quân về kinh đô tiêu diệt bọn quan hoạn. Nạn hoạn quan tuy trừ xong, nhưng mọi quyền hành đều rơi vào tay Chu Toàn Trung. Năm 904, Chu Toàn Trung giết Chiêu Tông lập Ai Ðế và đến năm 907 thì giành hẳn ngôi nhà Ðường lập nên triều Hậu Lương, đóng đô ở Biện Lương ( Khai Phong ).

Từ đó cho đến năm 960, ở miền bắc Trung Quốc lần lược dựng lên 5 triều đại là Hậu Lương ( 907 - 923 ), Hậu Ðường ( 923 - 935 ), Hậu Tấn ( 936 - 947 ), Hậu Hán (947 - 950 ), Hậu Chu ( 951 - 960 ).

Ơí miền nam, từ cuối đời Ðường, các tướng, quân phiệt mỗi người chiếm giữ một vùng. Sau khi Ðường diệt vong, các thế lực các cứ ấy đã lần lượt lập thành 9 nước là Tiền Thục ( 907 - 925 , Ngô Việt ( 907 - 978 ), Mân ( 909 - 945 ), Ngô (919 -937 ), Nam Hán ( 917 - 971 ), Nam Bình ( 925 - 978 ), Sở ( 927 - 951 ), Hậu Thục (934 - 965 ), Nam Ðường ( 937 - 975 ), cộng với nước Bắc Hán ( 951 - 979 ) ở miền Bắc là 10 nước. vì vậy thời kì lịch sử này gọi chung là thời kì Ngũ đại thập quốc.

Trong thời kì này, do tình trạng chia cắt trầm trọng như vậy nên chiến tranh diễn ra liên miên. Ơí những vùng xãy ra chiến sự, thây chết đầy đường, đồng ruộng bỏ hoang, cả nghìn dặm không có bóng người. Khi đánh nhau, bọn quân phiệt còn tự động phá đê, càng làm cho các loại thiên tai như hạn, lụt bảo thêm trầm trọng. Trong khi đó, chính quyền ở các nước đều thi hành chính sách thuế khóa nặng, hình phạt tàn khốc, bọn quan lại nhân cơ hội ấy tha hồ ức hiếp nhân dân, bởi vậy đời sống nhân dân Trung Quốc vô cùng khổ sở.

2. Sự đe dọa của người Khiết Ðan :

Bắt đầu từ thời kì này, Trung Quốc bị người Khiết Ðan xâm chiếm đất và thường xuyên đe dọa.

Người Khiết Ðan vốn là một chi nhánh của Ðông Hồ sống bằng nghề du mục ở đông bắc Trung Quốc ngày nay. Năm 916, một thủ lĩnh bộ lạc là Gia Luật A Bảo Cơ thống nhất các bộ lạc Khiết Ðan, lên ngôi hoàng đế. Nước Khiết Ðan bắt đầu được thành lập. Ngay năm đó, Khiết Ðan tấn công các tộc Ðột Quyết Ðột Dục Hồn, Ðảng Hạng, Sa Ðà ở phía tây và xâm chiếm nhiều châu ở phía bắc Trung Quốc. Năm 926, Khiết Ðan tiêu diệt nước Bột Hải ở phía đông, do đó địa bàn được mở rộng , trở thành một nước lớn mạnh.

Năm 936, Tiết độ sứ Hà Ðông của hậu Ðường là Thạch Kính Ðường (người Sa Ðà ) dựa vào thế lực của Khiết Ðan để cướp ngôi Hậu Ðưòng, lập nên triều Hậu Tấn.

Năm 937, Khiết Ðan đổi tên thành nước Liêu. Vốn có âm mưu thôn tín cả miền Bắc Trung quốc, năm 942, nhân khi Thạch Kính Ðường chết, Vua Liêu đem quân tiến xuống phía Nam, nhưng bị nhân dân Trung quốc chặn đánh, nên phải tạm thời lui quân.
Năm 946, Liêu lại tấn công Hậu Tấn, nhiều tướng lĩnh của Hậu Tấn đầu hàng, quân Liêu chiếm được Biện Lương, Hậu Tấn diệt vong. Gia Luật Ðức Quang lên làm hoàng đế ở Biện Lương, nhưng nhân dân Trung quốc khắp nơi nổi dậy đấu tranh, đến cuối năm 947, phải rút về Hoàng Hà.
 

cohonnhien

Thành viên
#4
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p4)

C - THỜI KỲ SUY TÀN CỦA CHẾ ÐỘ PHONG KIẾN TRUNG QUỐC


VI - TRIỀU NGUYÊN : ( 1271-1368)

1- Cuộc chinh phuc của người Mông cổ Và sự thành lập triều Nguyên :

Năm 1206, một thủ lĩnh bộ lạc tên là Têmusin, được hội nghị qúy tộc bầu làm đại Hãn, lấy hiệu là Singhit. Ðó là nhân vật ta quen gọi là Thành Cát Tư Hãn. Sự kiện ấy đánh dấu nhà nước Mông cổ chính thức thành lập.Ngay sau đó với những đội kỵ binh thiện chiến, Thành Cát Tư Hãn tích cực chuẩn bị chinh phục bên ngoài.

Năm 1209, Mông cổ tấn công Tây hạ, Tây Hạ thấy thế không thể chống cự nổi, phải nộp con gái xin hàng. Năm 1211, Thành Cát Tư Hãn tấn công nước Kim, đến năm 1215, chiếm được toàn bộ vùng đất từ Hoàng hà trở về Bắc. Năm 1216, Thành Cát tạm ngừng chiến sự ở phía Nam để chuẩn bị chinh phục phía Tây.

Năm 1218, cuộc viễn chinh sang phía Tây bắt đầu, chỉ trong vòng 7 năm, quân Mông cổ lần lượt chiếm được Trung Á, một phần Tây Á và lưu vực sông Daniep ở Ðông âu. Năm 1226, Mông cổ lại đánh Tây Hạ và năm sau Tây Hạ bị diệt vong, Thành Cát Tư Hãn bị bệnh chết mấy ngày trước khi Tây Hạ nộp thành đầu hàng.

Năm 1230, Mông cổ lại tấn công nước Kim, đến năm 1234, quân Mông cổ với sự tham gia của quân Tống, đã đánh bại nước Kim. Theo giao ước trước kia, Tống đem quân thu hồi Lạc dương và Khai Phong, nhưng bị quân Mông cổ chặn đánh và tháo nước sông Hoàng Hà làm cho quân Tống chết đuối gần hết. Việc đó mở đầu cho sự xung đột giữa Nam Tống và Mông cổ. Tuy nhiên do sự đấu tranh trong cung đình Mông cổ, cuộc chinh phục Nam Tống phải tạm hoãn. Năm 1251, Mông Ca (cháu Thành Cát Tư Hãn) giành được ngôi đại hãn.

Ðể tạo nên một thế bao vây đối với Nam Tống, Mông Ca sai em mình là Khubilai (Hốt tất Liệt) chinh phục khu vực phía Tây và Taq6y Nam của Trung quốc ngày nay và đã tiêu diệt nước Ðại Lý ở Vân nam vào năm 1253. Năm 1258, Mông Ca và Hốt Tất Liệt đem quân tấn công Nam Tống, nhưng đến năm 1259, Mông Ca bị tử trận, Hốt Tất Liệt vội vàng rút quân về Bắc để tranh giành ngôi đại hãn.

Sau 4 năm tranh giành, Hốt Tất Liệt giành được ngôi đại hãn. Là người vốn chịu nhiều ảnh hưởng của văn minh Trung quốc, năm 1271,Hốt Tất liệt đổi xưng làm hoàng đế, đặt tên nước là Nguyên, dời đô từ Khai Bình đến Ðại Ðô (Bắc Kinh), đặt chế độ quan lại giống như các triều đại phong kiến Trung quốc. Sau đó năm 1274,, Hốt Tất Liệt sai tướng đem quân đi đánh Nam Tống. Năm 1276, kinh đô Lâm An (Hàng Châu) của Nam Tống bị hạ, triều đình Nam Tống đầu hàng, nhưng một số quan lại yêu nước lập dòng dõi nhà Tống lên làm vua ở Phúc Châu (Phúc Kiến) và tiếp tục kháng chiến đến năm 1279 mới hoàn toàn bị tiêu diệt.

2- Chính sách thống trị của nhà Nguyên:

Trong qúa trình chinh phục nước Kim, quân Mông cổ thi hành chính sách giết sạch, cướp sạch, đốt sạch để lấy đất làm bãi chăn nuôi.

Sau khi tiêu diệt Nam Tống, Triều Nguyên một mặt hoàn toàn bắt chước cách tổ chức bộ máy nhà nước, chế đô phân phong ruộng đất, chế độ thuế khóa,... của Trung quốc, nhưng mặt khác lại thi hành chính sách áp bức dân tộc trắng trợn. Ðể giành quyền ưu tiên cho dân tộc chinh phục, triều Nguyên chia cư dân cả nước làm 4 loại :

- Loại 1 là người Mông cổ.

- Loại 2 là người Sắc, Mục (bao gồm người Tây Hạ,Duy Ngô Nhĩ, các tộc ở Trung á, Ba tư,...)

- Loại 3 là người Hán ( bao gồm người Khiết Ðan, Nữ Chân, Hán, Cao Li,... vốn là cư dân của nước Kim).

- Loại 4 là người Nam ( tức là cư dân của Nam Tống).

Bốn loại người nầy bị đối xử phân biệt rõ rệt về mọi mặt. Quyền chỉ huy quân đội hoàn toàn thuộc về người Mông cổ.Về pháp luật, nếu người Hán, người Nam phạm tội giết người thì bị xử tử, còn người Mông cổ thì chỉ bị phạt đánh gậy hoặc đưa lên biên giới phía Bắc sung vào quân đội. Ðể đề phòng nhân dân Trung quốc nổi dậy đấu tranh, pháp luật hà Nguyên còn nghiêm cấm người Hán, người Nam không được tụ họp đông người như đi săn, rước thần và không được cầm vũ khí.

Về mặt ruộng đất, nhà Nguyên ban cấp nhiều ruộng đất cho qúy tộc Mông cổ và các chùa chiền. Ngoài ruộng đất được phong, bọn qúi tộc Mông cổ còn chiếm đoạt ruộng đất của nông dân.Nhân đó ở Hoa Nam, các địa chủ Hán tộc cũng tìm mọi cách phát triển thế lực kinh tế của mình.,

Do chính sách khủng bố, cướp đoạt và nô dịch đó, nông dân Trung quốc rất cực khổ. Rất nhiều người bị biến thành nô tỳ mà đời Nguyên gọi là khu khẩu hoặc khu đinh.

3 - Những cuộc chiến tranh xâm lược :

Ðầu đời Nguyên, chỉ trong vòng 20 năm, Hốt Tất Liệt đã phát động nhiều cuộc chiến tranh để xâm lược Nhật Bản, Miến Ðiện, Chiêm Thành, Ðại Việt và Gia Va.

Từ lâu Nhật Bản là mục tiêu chinh phục của Mông Cổ. Năm 1226, Hốt Tất Liệt nhiều lần sai sứ đưa thư sang Nhật Bản yêu cầu lập quan hệ ngoại giao và gịuc vua Nhật Bản cử ngay sứ giả sang triều đình Mông Cổ, nếu không đáp ứng yêu cầu đó, thì chiến tranh không thể tránh khỏi nhưng trước sau Nhật Bản vẫn không trả lời.

Vì vậy, sau khi thành lập nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt sai Hân Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang đánh Nhật Bản. Quân Nguyên chiếm được các đảo nhỏ Su Si Ma và I Ki rồi đổ bộ lên miền Tây Bắc đảo Kiu Sư. Tuy nhiên, tự nhận thấy mình chưa đủ lực lượng tiến sâu hơn nữa, quân Nguyên phải rút lui.

Năm 1281, nhà Nguyên lại sai các tướng A Tháp Hải, Phạm Văn Hổ, A Hàn Ðô, Hồng Trà Khâu đưa quân sang tấn công Nhật Bản lần thứ hai. Khi quân Nguyên vừa mới tới Nhật Bản chưa kịp giao chiến thì gặp bão, nhiều thuyền bị đắm. Văn Hổ cùng các tướng khác tự chọn lấy những chiếc thuyền chắc chắn và tốt để về, bỏ lại hơn 10 vạn binh lính ở dưới chân núi... mọi người đang chặt gổ đóng thuyền để về thì người Nhật Bản đến đánh, binh sĩ chết gần hết, ba vạn người bị bắt đem đi...thế là 10 vạn quân chỉ còn ba người về được mà thôi..

Nhà Nguyên dự định đánh Nhật Bản một lần nữa, nhưng khi đang chuẩn bị binh lính thuyền bè thì cuộc chiến tranh xâm lược Ðại Việt năm 1285 bị thất bại nặng nề, nên năm 1286, Hốt Tất Liệt phải quyết định bỏ việc Nhật Bản để chuyên vào việc Giao Chỉ .

Ðối với Miến Ðiện, năm 1271, Hốt Tất Liệt nhiềulân sai sứ sang yêu cầu Miến Ðiện đầu hàng, nhưng Miến Ðiện Không chịu thuần phục, thậm chí còn có lần giết sứ giả. Vì vậy Hốt Tất Liệt đã cho quân sang tấn công Miến Ðiện ba lần vào các năm 1277, 1283, 1287. Kết quả Miến Ðiện phải thuần phục dưới hình thức phải nhận phong hiệu và phải tiến cống nhà Nguyên.

Sau đó chính quyền Miến Ðiện bị ba anh em Athinhcaya thuộc bộ tộc San ( Thái ) lũng đoạn. Năm 1298, Athinhcaya bắt vua Miến Ðiện cầmtù rồi giết chết. Con rể và con trai vua Miến Ðiện chạy trốn sang Trung Quốc.

Lợi dụng sự rối ren ấy, năm 1300, vua Nguyên lại xâm lược Miến Ðiện lần thứ tư. Bị quân Nguyên bao vây, anh em Athinhcaya đã đem nhiều vàng bạc đến đút lót cho các tướng Nguyên lấy lí do trời nóng, lam chướng phát sinh, quân khổ nhọc nếu không về sợ bị tội vì tử thương. rồi lập tức rút quân. Về đến nước, hai tướng Cao Khánh và Sát Hãn Bất Hoa đều bị xử tử vì tội ăn hối lọ làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược.

Chiêm Thành cũng là mục tiêu xâm lược của triều Nguyên. Năm 1279, Hốt Tất Liệt sai sứ đi yêu cầu vua Chiêm Thành đến chầu. Ðể tránh hiểm họa chiến tranh, Chiêm Thànhtỏ ý thuần phục, nhưng không đồngý để nhà Nguyên lập cơ quan hành tỉnh ở nước mình. Vì vậy, năm 1283, quân Nguyên tấn công kinh đô Chiêm Thành. Vua Chiêm Thành đốt kho tàng tạm thời rút vào rừng. Sau đó, vua Chiêm Thành giả vờ xin hàng để nhử quân Nguyên vào trận địa bố trí sẳn. Quân Nguyên phảiliều mình đánh mới thoát về đồn cố thủ và dến đầu 1284 phải lặng lẽ rút quân về nước.

Ðối với Ðại Việt, trước khi thành lập triều Nguyên, đầu năm 1258, quân Nguyên ở Vân Nam đã mở cuộc tấn công lần thứ nhất nhằm mục đích đánh dẹp các xứ Man Di chưa phụ thuộc , đồng thời để khép kín vòng vây đối với Nam Tống. Thế nhưng chỉ trong vòng nữa tháng, lần đầu tiên, quân Nguyên bị đánh bại hoàn toàn. Hai cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Nguyên ( 1285, 1288 ) cũng đều thất bại hoàn toàn.

Ðối với Gia Va, năm 1292, Hốt Tất Liệt sai Mạnh Kì đi yêu cầu nước này thuần phục nhà Nguyên, nhưng bị vua Kritangara (1268 - 1292 ) thuộc triều Xinggaxari thích chử vào mặt đuổi về.

Vin vào cớ ấy, cuối năm 1292, nhà Nguyên cử Sử Bật, Cao Hưng đem 2 vạn quân với 1000 chiếc thuyền vượt biển tiến xuống phía nam và đến đầu 1293 thì đến Gia Va.

Vào lúc đó, Kitangara bị một chúa phong kiến là Giayacatvang giết chết để cướp ngôi. Người con rể của ông là Rajen Vijaya giả vờ đầu hàng quân Nguyên để mượn lực lượng quân xâm lược trả thù cho nhạc phụ. Nhờ vậy quân Nguyên tạm thời thu được thắng lợi, nhưng sau đó Rajen Vijaya tổ chức phản công, quân Nguyên thấtbại phải rút lui. Về đến nước, Sử Bật bị phạt đánh 17 gậy và bị tịch thu 1/3 tài sản.

4 - Phong trào khởi nghĩa cuối Nguyên

Dù đã Trung Quốc hóa, triều Nguyên vẫn là triều đại của kẻ chinh phục ngoại tộc, do đó trong thời kì này, xã hội Trung Quốc tồn tại hai mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp. Chính vì thế, trong suốt thời kì thống trị của triều Nguyên, các phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc diễn ra liên tiếp. Ðặt biệt cuối đời Nguyên, tập đoàn thống trị Mông Cổ ngày càng xa xỉ, trong khi đó đê điều hỏng nặng không sửa chữa, các laọi thiên tai thường xuyên xãy ra, dịch bệnh lan tràn, do đó nhân dân càng khốn khổ. Trong hoàn cảnh ấy, các hình thức tôn giáo như đạo Di Lặc, đạo Bạch Liên và Minh giáo đang âm ỉ lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, nhất là ở vùng lưu vực sông Hoàng Hà.

Năm 1351, đe Hoàng Hà sau nhiều lần bị vở, nhà Nguyên bất đắt dĩ phải điều 15 vạn dân phu đi đắp đê. Nhan cơ hội ấy, giáo trưởng đạo Bạch Liên là Hnà Sơn đồng cùng đồ đệ của mình là Lưu Phúc Thông mưu tính viẹc khởi nghĩa. Ðể tranh thủ sự đồngtình của quần chúng, Lưu Phúc Thông phao tin rằng Hàn Sơn đồng là cháu 8 đời của Tống Huy Tông từ Nhật Bản đem quân về đánh đổ triều Ngyuên. Nhưng trong khi chuẩn bị khởi nghĩa thì kế hoạch bị bại lộ. Hàn Sơn Ðồng bị bắt và bị giết chết. Tuy vậy, Lưu Phúc Thông vẫn tiếp tục lãnh đạo khởi nghĩa.

Ðược tin Lưu Phúc Thông dựng cờ khởi nghĩa, nhân dân nhiều nơi nổi dậy hưởng ứng, trong đó có những nhóm tương đối lớn như lực lượng của Từ Thọ Huy ở Hồ Bắc, Quách Tử Hưng ở An Huy. Quần chúng khởi nghĩa đều chít khăn đỏ làm hiệu nên gọi là quân Khăn đỏ ( Hồng Cân quân ). Khẩu hiệu đấu tranh của họ là đánh đổ nhà Nguyên, khôi phục nhà Tống.

Lúc đầu lực lượng khởi nghĩa của Lưu Phúc Thông đã giành được thắng lợi to lớn, đã tôn con Hàn Sơn Ðồng là Hàn Lâm Nhi lên làm vua, và đặt tên nước là Ðại Tống. Nhưng đến năm 1363, Lưu Phúc Thông bị Trương Sĩ Thành, một thủ lĩnh nông dân đã thuần phục nhà Nguyên, đánh bại.

Khi quân khăn đỏ của Lưu Phúc Thông đang tiến quân thuận lợi ở miền bắc thì nghĩa quân do Từ Thọ Huy lãnh đạo cũng thu được nhiều thắng lợi ở vùng lưu vực Trường Giang. Năm 1360, Từ Thọ Huy bị một viên tướng của mình là Trần Hữu Lượng giết chết. Trần Hữu Lượng tự xưng là vua, đặ tên nước là Hán. Năm 1362, một tướng khác của Từ Thọ Huy là Minh Ngọc Trân không phục Trần Hữu Lượng cũng xưng vương ở vùng Tứ Xuyên Vân Nam, đặt tên nước là Hạ.

Cũng trong thời kì này, lực lượng quân khăn đỏ do Quách Tử Hưng lãnh đạo không ngừng phát triển. Trong hàng ngũ họ Quách có một nhân vật về sau trở nên rất quan trọng, đó là Chu Nguyên Chương.

Chu Nguyên Chương xuất thân từ một gia đình bần nông, đã từng làm sư khất thực một thời gian. Năm 1352, ông tham gia lực lượng khởi nghĩa của Quách Tử Hưng. Năm 1355, Quách Tử Hưng chết, Chu Nguyên Chương trở thành người lãnh đạo chính của nghĩa quân.

Năm 1356, Chu Nguyên chương thành lập chính quyền ở Kim Lăng ( Nam Kinh ), tự xưng là Ngô quốc công, rồi đến năm 1364 thì xưng làm Ngô vương. Sau khi lần lượt đánh bại các tập đoàn quân phiệt Trần Hữu Lượng, Trương Sĩ Thành... đến năm 1367, Chu Nguyên Chương đã thâu tóm hết miền Nam Trung Hoa rộng lớn.

Ngay năm đó, Chu Nguyên Chương sai tướng đem quân đánh miền bắc, đồng thời truyền hịch nói rõ mục đích của việc tiến quân là để đánh đuổi giặc Hồ, khôi phục Trung Hoa, lập lại cương kỉ cứu vớt nhân dân, khôi phục uy nghi cho quan lại người Hán..

Trong khi quân Bắc tiến không ngừng thu được thắng lợi, năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi hoàng đế ở Kim Lăng, đặt tên nước là Minh. Mùa thu năm đó, quân đội của Chu Nguyên Chương tấn công Ðại Ðô, triều đình nhà Nguyên vội vàng chạy lên phía Bắc, ra khỏi Trường Thành. Nền thống trị của nhà Nguyên ở Trung Quốc kết thúc. Tiếp đó, Chu Nguyên Chương tiêu diệt thế lực cát cứ của Minh Ngọc Trân và các lực lượng còn lại của triều Nguyên, đến năm 1387 thì hoàn toàn thống nhất Trung Hoa.
 

cohonnhien

Thành viên
#5
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p5)

VII. TRIỀU MINH ( 1368 - 1644 )


1. Thời kì cường thịnh của triều Minh

Khi nhà Minh mới thành lập, do hậu quả của chính sách cai trị của triều Nguyên và gần 20 năm chiến tranh, nền kinh tế Trung Quốc bị phá hoại nghiêm trọng, đời sống nhân dân rất khốn khổ.

Trước tình hình ấy, mặc dầu từ lâu không còn là đại biểu của giai cấp nông dân nữa, nhưng Minh Thái tổ ( Chu Nguyên Chương ) vẫn thông cảm được các nổi khổ của nhân dân đồng thời cũng hiểu rỏ sức mạnh của quần chúng. Vì vậy ông nói : Thiên hạ mới định, tài lực trăm họ còn khó khăn, giống như con chim mới tập bay, không thể nhổ lông nó, như cây mới trồng không thể lay gốc nó mà phải nâng niu nuôi dưỡng.. Quán triệt tư tưởng đó, Minh Thái tổ đã thi hành những chính sách sau đây:

- Trả tự do cho những người bị biến thành nô tì trong thời gian loạn lạc, đồng thời cấm cưỡng bức hoặc mua bán dân tự do làm nô tì.

- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp như kêu gọi nhân dân khai khẩn đất hoang, cho họ có quyền sở hữu vĩnh viễn và không đánh thuế; kêu gọi dân lưu tán trở về quê quán, cấp cho họ ruộng hoang đồng thời cấp bò cày, nông cụ, thóc giống, lương thực để gíup họ vượt qua những khó khăn ban đầu. Nhà nước còn chú ý đến vấn đề thủy lợi, giảm nhẹ thuế khóa, cứu tế cho dân những nơi bị mất mùa.

- Bỏ những hình phạt tàn khốc thời Nguyên như thích chữ vào mặt, cắt mũi, chặt chân, thiến...đồng thời dùng nguyên tắc khoan hồng trong xét xử.

- Nghiêm trị bọn quan lại tham ôbằng các cực hình như chém bêu đầu, tùng xẻo, giết cả họ...Nhờ những chính sách nói trên, trong vòng 30 năm đầu đời Minh, kinh tế được khôi phục nhanh chóng và bước đầu phát triển, tình hình chính trị được ổn định, đời sống nhân dân bước đầu được cải thiện.

Song một mặt khác, Minh Thái Tổ rất quan tâm tới việc xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế tập quyền, vì vậy năm 1380, ông quyết định bỏ chức thừa tướng để tập trung quyền hành vào tay hoàng đế.

Năm 1398, Minh Thái Tổ chết. Vì người con cả chết sớm nhưng cháu đích tôn ông được lên nối ngôi, nhưng người con thứ Yên vương Chu Ðệ đã từ miền bắcđem quân tấn công Kim Lăng. Cuộc nội chiến giữa hai chú cháu bùng nổ. Năm 1402, Chu Ðệ thắng và giành được ngôi hoàng đế. Ðó là Minh Thành Tổ, một ông vua nổi tiếng của triều Minh.

Trong thời kì thịnh trị của mình, Minh Thành tổ tiếp tục thi hành những chính sách thúc đẩy sản xuất nông nghiệp như tu sửa vãây dựng các công trình thủy lợi, chỉnh đốn thué khóa, cứu tế dân đói..

Ðối với bên ngoài, Minh Thành Tổ tích cực xây dựng chính sách viễn giao cận công , dĩ Di trị Di . Ông đã năm lần đem quân đi đánh người Tác Ta và người Oi Rát, hai chi nhánh của tộc Mông Cổ, mua chuộc họ và xúi giục họ đánh lẫn nhau. Ông còn hết sức lôi kéo sự thuần phục của tộc Nữ Chân. Kết quả là có lúc thủ lĩnh các tộc tộc Tác Ta, Oi Rát, Nữ Chân tạm thời quy phục, nhưng quan hệ ấy không bền chặt, trái lại sau đó đã trở thành mối đe dọa lớn đói vởiTrung Quốc trong một thời gian dài. Cũng chính để được thuận lợi hơn trong các hoạt động quân sự ở phía bắc, nên năm 1421, Minh Thành tổ dời đo lên Bắc Kinh.

Ngoài ra Minh Thành tổ còn nhiều lần cử sứ giả đến các nước Ðông Nam Á, Nam Á, Tây Á để phô trương sự giàu mạnh của Trung Quốc và loi kéo các nước ở vùng này thuần phục nhà Minh. Trong những hoạt động ngoại giao đó, rầm rộ nhất là chuyến đi biển do viên Thái giám Trịnh Hòa dẫn đẫuuống các nước ven biển phía Nam từ năm 1405 đến năm 1433.

Ðối với Ðại Việt, Minh Thành Tổ đã phát động cuộc chiến tranh xâm lược vào năm 1406 và kéo dài chiến tranh cho đếnkhi ông ta chết ( 1426 ) vẫn chưa kết thúc.

Như vậy thời kì trị vì của Minh Thành Tổ là thời kì cường thịnh nhất, nhưng ngắn ngủi của triều Minh.

2. Sự suy yếu của triều Minh:

từ thập kỉ 30 của thế kỉ XV trở về sau, triều Minh bát đầu suy sụp. Lúc bấy giờ vua thường lên ngôi khi còn ít tuổi, chỉ biết ăn chơi, mọi quyền hành đều bị các quan hoạn lũng đoạn. Nhân đó, cả tập đoàn quan lại chỉ lo vơ vét đầy túi tham, giai cấp địa chủ tìm cách chiếm đoạt ruộng đất. Thêm vào đó, Trung Quốc nhiều lần bị người Mông Cổ xâm nhập, thậm chí trong cuộc tấn công năm 1449, Minh Anh Tông đã biü bắt làm tù binh. Do vậy, nhân dân hết sức đói khổ phải rời bỏ quê hương đi tha phương cầu thực. Nhiều nơi nhân dân nổi dậy khởi nghĩa.

Trước tình hình đó, đến đời Gia Tĩnh ( 1522-1566), nhà Minh phải thi hành một số chính sách xoa dịu mâu thuẩn xã hội như : giãm nhẹ tô thuế lao dịch, hạn chế sự lộng quyền của các hoạn quan và việc chiếm ruộng đất của giai cấp đi6a chủ, Nhưng những cải cách ấy chẳng bao lâu do việc tranh quyền đoạt vị trong triều dẫn đến sự rối loạn về chính trị nên không thực hiện được.

Sau mấy năm rối ren, đến thời Vạn Lịch (1573-1619), tình hình được ổn định trong vài mươi năm nhờ những cải cách về kinh tế, chính trị, quân sự. Nhưng từ giữa thời Vạn Lịch về sau, phái cải cách bị bài trừ, phái quan hoạn lại thắng thế. Ðặc biệt đến đầu thế kỷ XVII, triều đình nhà Minh bị quan hoạn Ngụy Trung Hiền lũng đoạn, thậm chí y có thể cách chức những quan đại thần không ăn cánh.

Lúc bấy giờ, những quan lại bị gạt ra khỏi triều đình lập thành một tổ chức chính trị gọi là đảng Ðông Lâm nhằm chống lại tập đoàn quan hoạn và phê phán nền thống trị đen tối đương thời.

Dựa vào quyền thế của mình, Ngụy Trung Hiền và vây cánh đã phản kích đảng Ðông Lâm, giết hại một số thủ lĩnh quan trọng của đảng nầy. Về sau, tuy Ngụy Trung Hiền bị giết chết, nhưng cuộc đấu tranh giữa tập đoàn quan hoạn và đảng Ðông Lâm vẫn tiếp diễn cho đến khi nhà Minh diệt vong.

3. Phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh:

Ðến cuối triều Minh, tình hình chính trị trở nên rối ren, giai cấp địa chủ phong kiến lợi dụng tình hình đó chiếm đoạt nhiều ruộng đất, làm cho phần lớn nhân dân Trung Quốc không có ruộng.

Những nông dân còn giữ được ít ruộng đất thì phải chịu xu cao thuế nặng, nhiều người không thể nộp thuế buộc phải cầm ruộng đất, rồi bán thân mình trở thành tá điền, nô tì hoặc tha phương cầu thực.

Lúc bấy giờ nhân dân cả nước nói chung đều khốn khổ, nhưng nghiêm trọng nhất là vùng Thiểm Tây. Vì vậy, Thiểm Tây trở thành nơi bùng nổ đầu tiên của phong trào chiến tranh nông dân cuối triều Minh.

Năm 1627, nông dân Thiểm Tây nổi dậy khởi nghĩa. Ðến năm 1631, các nhóm khởi nghĩa riêng lẽ ấy tập hợp lại thành 36 doanh do các thủ lĩnh như Cao Nghênh Tường, Trương Hiếu Trung, Lí Tự Thành... cầm đầu. Số người tham gia lên đến 20 vạn, quân khởi nghĩa vượt Hoàng Hà đến hoạt động ở vùng Hà Nam, rồi từ Hà Nam nhanh chóng tiến đến Phượng Dương ( An Huy ), đốt lăng tẩm tổ tiên nhà Minh quyết lật đổ nền thống trị của triều đại này.

Năm 1638, nhà Minh huy động quân chủ lực tấn công quân nông dân, Lí Tự Thành và Trương Hiếu Trung tạm thời phải lánh đi, lực lượng hoàn toàn tan rã. Nhưng chỉ vài năm sau, Lí Tự thành đã nhanh chóng tập hợp quần chúng, xây dựng lực lượng tiếp tục đấu tranh.

Nhờ khẩu hiệu Trọng hiền sĩ , chia ruộng , miễn thuế ...nên quân khởi nghĩa càng được nhân dân hoan nghênh, lực lượng càng phát triển nhanh chóng, và từ đó liên tiếp giành được thắng lợi.

Năm 1644, Lí Tự Thành lên ngôi hoàng đế ở Tây An ( Thiểm Tây ), đặt tên nước là Ðại Thuận, lập bộ máy quan lại mới, khôi phục hệ thống tước vị quý tộc Công, Hầu, Bá, Tử, Nam. Tiếp đó, Lí Tự Thành tấn công và chiếm được Bắc Kinh. Vua Sùng Trinh nhà Minh phải treo cổ tự tử.

Sau khi nghe tin nhà Minh sụp đổ, Tổng binh nhà Minh là Ngô Tam Quế quyết định đầu hàng Mãn Thanh để chống lại Lí Tự Thành. Lí Tự Thành đem quân đánh Ngô Tam Quế nhưng bị liên quân Ngô Tam Quế và Mãn Thanh đánh bại, do đó phải rút khỏi Bắc Kinh. Trên đường rút lui, quân Lí Tự Thành nhiều lần bị quân Thanh truy kích, thấy không thể thoát khỏi, nên Lí Tự Thành đã thắt cổ tự tử.

Năm 1646, trong một trận chiến đấu với quân Thanh, Trương Hiến Trung bị thương rồi bị quân Thanh bắt và giết chết. Như vậy, phong trào nông dân cuối Minh đến đây về cơ bản bị thất bại.

VIII. TRIỀU THANH

1. Sự hình thành đế quốc Thanh:

Năm 1644, ngay sau khi Lí Tự Thành thất bại rút khỏi Bắc Kinh, vua Thanh chiếm lấy kinh thành. Một triều đại phong kiến mới ở Trung Quốc được hình thành. Triều Thanh.

Sau khi thống trị Trung Quốc, triều Thanh tiếp tục thực hiện kế hoạch thôn tính miền Bắc và miền Tây Mông Cổ. Lúc bấy giờ, chi tộc Mông Cổ cư trú ở miền Bắc gọi là người Khan Kha, còn ở miền Tây, mạnh nhất là tộc Junke. Do mâu thuẫn nội bộ và bị tộc Junke tấn công, nên năm 1697, tộc Khan Kha phải thần phục Thanh, còn Junke thì đến năm 1757 cũng hoàn toàn bị đánh bại.

Về phía Ðông Nam, mục tiêu chinh phục của Thanh là Tây Tạng. Năm 1718, nhà Thanh đưa quân vào Tây Tạng, nhưng bị Mông Cổ đánh bại. Mãi đến năm 1727, Tây Tạng mới chính thức bị xáp nhập vào đế quốc Thanh.

Ơí phía Tây Bắc, vùng Tân Cương ngày nay là nơi cư trú của người Duy Ngô Nhĩ ( Hồi Hột ). Ðầu đời Thanh, vùng này bị người Mông Cổ Junke thống trị. Sau khi đánh bại người Mông Cổ ở Tây Tạng, từ năm 1758 đến 1759, Thanh đã tấn công và chiếm được đất đai của người Duy Ngô Nhĩ và đặt tên là Tân Cương.

Như vậy, trải qua một quá trình chiến đấu lâu dài, đến giữa thế kỉ XVIII, triều Thanh đã thôn tính được Mông Cổ, Tây Tạng, Tân Cương, cùng với Mãn Châu và đất đai của nước Minh cũ, lập thành một đế quốc rộng lớn.

2. Những cuộc chiến tranh xâm lược :

Năm 1766, viện lí do Miến Ðiện xâm phạm biên giới, nhà Thanh sai Dương Ứng Cư đem quân sang đánh. Vua Miến Ðiện giả vờ đề nghị giảng hòa rồi tập trung đánh bại quân Thanh. Dương Ứng Cư bị cách chức và buộc phải tự xác.

Năm 1767, vua Càng Long cử con rể của mình là Minh Thụy và tướng Ngạch Nhĩ Cảnh Ni tấn công Miến Ðiện lần 2, Cảnh Ni bị phục kích chết dọc đường nên Minh Thụy phải rút lui.

Năm 1769, nhà Thanh lại cử Phó Hằng cùng nhiều tướng lĩnh ào ạt tấn công Miến Ðiện lần thứ ba. Lúc đầu quân Miến điện bị thua, phải rút về cố thủ ở Ca Ung Tôn. Ơí đây, quân nhà Thanh bị dịch bệnh lan tràn, Phó Hằng cũng mắc bệnh tả, quân Thanh hết sức bi quan, nên Càng Long ra lệnh phải rút quân về nước.

Ðối với Ðại Việt, cuối năm 1788, dưói chiêu bài giúp đở họ Lê khôi phục ngai vàng, nhà Thanh sai Tôn Sĩ Nghị đem 20 vạn quân sang xâm lược. Quân Thanh đã tạm thời chiếm được Thăng Long, nhưng trong trận đánh tết Kỉ Dậu ( 1789 ) nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung, đã đánh bại 20 vạn quân Thanh.

Ðây là cuộc chiến tranh xâm lược có quy mô lớn cuối cùng của triều Thanh.

3. Chính sách thống trị của Mãn Thanh :

Trong quá trình chinh phục Trung Quốc, quân Thanh bắt nhân dân Trung Quốc phải theo một số phong tục tập quán của người Mãn Châu mà trước hết là bắt cạo tóc theo kiểu người Mãn.

Ðồng thời với quá trình chinh phục, nhà Thanh ra sức củng cố bộ máy nhà nước chuyên chế trung ương tập quyền và chính sách áp bức dân tộc. Mặt khác, thi hành chính sách mua chuộc giai cấp địa chủ người Hán như bảo vệ quyền lợi ruộng đất cho họ, thu hút nhiều trí thức Hán tộc vào bộ máy quan lại, đề cao Nho học.

Do chính sách hai mặt đó, nên thời kì đầu tuy xã hội có tồn tại mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc, nhưng không gay gắt bằng thời Nguyên. Nhưng từ cuối thế kỉ XVIII về sau, giai cấp thống trị xa xỉ, quan lại tham ô, ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ, nên nhân dân càng cực khổ. Nhiều cuộc khởi nghĩa của nhân dân đã nổ ra.

4. Sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dân phương Tây :

Bồ Ðào Nha là người phương Tây sớm nhất đến Trung quốc (1517). Năm 1521, triều Minh ra lệnh buộc người Bồ rút khỏi Trung quốc. Ð1ap lại mệnh lệnh ấy, năm 1523,người Bồ gây chiến với Trung quốc nhưng bị đánh bại. Nhân việc đó triều Minh ra lệnh đóng cửa biển, cấm hẵn việc buôn bán với nước ngoài. Năm 1553, nhân việc thuyền gặp bão người Bồ xin được lên Aïo môn phơi hàng hóa bị ướt. Nhờ đút lót cho quan địa phương, họ được lên cư trú ở Aïo môn và đến năm 1557, thì bắt đầu xây dựng nhà cửa, pháo đài, thành quách, dần dần biến mãnh đất nầy thành thuộc địa.

Năm 1570, người Tây Ban nha chiếm được đảo Lozon (Philippine) và đê`1n năm 1557, họ đến buôn bán ở Ðàm châu.

Năm 1601, người Hà Lan xâm nhập Bành hồ, nhưng ít lâu sau bị đánh đuổi. Năm 1624 họ chiếm đảo Ðài Loan, nhưng đến năm 1662 thì bị Trịnh Thành Công đánh đuổi.

Ðến đầu triều Thanh, nhà Thnanh thi hành chính sách đóng cửa nghiêm ngặt, cấm nhân dân Trung quốc đi ra ngoài bằng đường biển, còn thương nhân Châu âu thì chỉ được buôn bán ở Aïo Môn mà thôi. Ðến đời Càng Long (1736-1795), do các thương nhân phương Tây nhất là người Anh đã có những hoạt động trái phép ở vùng ven biển Trung quốc, nên năm 1757 nhà Thanh ra lệnh chỉ cho các nhà buôn nước ngoài được buôn bán ở Quảng Châu mà thôi.

Trong khi Trung quốc thi hành chính sách đóng cửa, thì nền công nghiệp dệt Anh phát triển nhanh chóng. Ðồng thời từ nủa sau thế kỷ XVII, Anh thu và mua rẽ được rất nhiều thuốc phiện ở Ấn độ. Ðể tiêu thụ những thứ hàng đó, Anh chủ yếu nhằm vào thị trường Trung quốc.

Năm 1792 và năm 1816, chính phủ Anh hai lần cử sứ giả đến triều đình Trung quốc yêu cầu đặt quan hệ thông thương nhưng đều không thành công.Tuy vậy , thuyền buôn của Anh vẫn không ngừng chở thuốc phiện đến bán ở Trung quốc. Việc đó làm cho bạc trắng của Trung quốc chạy ra ngoài rất nhiều, đồng thời làm cho người Trung quốc suy nhược về thể chất lẫn tinh thần. Do đó năm 1838, nhà Thanh cử Lâm Tất Từ làm khâm sai đại thần đến Quảng Châu để thực hiện triệt để lệnh cấm bán thuốc phiện. Ðáp lại thái độ cứng rắn đó, năm 1840 chính phủ Anh quyết định dùng quân sự bắt Trung quốc phải mở các cửa biển để buôn bán. Chiến tranh Trung - Anh mà lịch sử gọi là Chiến tranh thuốc phiện bùng nổ và kết qủa là triều Thanh phải nhượng bộ. Sự kiện đó đánh dấu xã hội Trung quốc bước vào giai đoạn mới - giai đoạn nửa thuộc địa.
 

cohonnhien

Thành viên
#6
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p6)

VĂN HỌC TRUNG QUỐC TỪ TRIỀU ÐẠI MÔNG NGUYÊN (1279-1368) ÐẾN THỜI ÐƯƠNG ÐẠI


Có thể xem đây là Tám thế kỷ phát triển của Văn chương Trung Quốc.Trong tám thế kỷ ấy,lịch sử Trung Quốc đã diễn ra nhiều biến thiên trọng đại. Từ chế độ phong kiến, Trung Quốc đã trải qua chế độ nửa phong kiến nửa thuợc địa. Từ cách mạng dân chủ tư sản kiểu cũ đã chuyển sang cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp công nhân lãnh đạo.Sau khi thực hiện thắng lợi hai cuộc cách mạng dân tộc và dân chủ, Trung Quốc đã tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Cũng trong tám thế kỷ ấy, văn chương Trung Quốïc không ngừng phát triển. Từ hình thái văn chương cổ điển, nền văn chương Trung Quốc đã chuyển mình trên con đường hiện đại hóa để có được sự phát triển đồng đều của nhiều loại thể và thể loạüi, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, đóng góp xứng đáng cho nền văn chương nhân loại.

VĂN CHƯƠNG THỜI MÔNG NGUYÊN (1279 - 1368)


Mỗi giai đoạn lịch sử đều có những đặc điểm và những yếu tố khác nhau tác động, ảnh hưởng đến sự phát triển của văn chương. Những đặc điểm và những yếu tố ấy có khi tác động trực tiếp, cũng có khi tác động gián tiếp. Nó tạo nên những nguyên nhân chủ quan và khách quan thúc đẩy sự phát triển của văn chương.

Thời Mông Nguyên có thể tính từ 1279 (lúc Mông Cổ chiếm được toàn bộ đất đai của Trung Quốc) đến 1368 (lúc xây dựng được nhà nước thống nhất của Hán tộc). Nét nổi bật nhất của giai đoạn lịch sử này là sự thống trị hà khắc và tàn bạo của xâm lược Mông Cổ đè nặng lên đời sống mọi mặt của người dân Trung Quốc. Từ trong bối cảnh ngột ngạt ấy, văn chương vẫn phát triển, đặc biệt là thể loại tạp kịch. Sân khấu tạp kịch đã trở thành diễn đàn để cho các văn nhân, nghệ sĩ chân chính bày tỏ tâm tư, ước vọng của quần chúng nhân dân Trung Quốc trước bạo lực cường quyền của quân xâm lược.

I. NHỮNG NÉT NỔI BẬT CỦA GIAI ÐOẠN VĂN CHƯƠNG THỜI MÔNG NGUYÊN


Về lịch sử xã hội:

Mông Cổ xâm lược Trung Hoa và thiết lập nên triều đại nhà Nguyên trên đất Trung Hoa, nên sử gọi là thời Mông Nguyên.

Mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc trở nên gay gắt, đặc biệt là mâu thuẫn dân tộc.

Về văn chương:

Ở giai đoạn này, có sự phát triển phồn thịnh nhất của thể tạp kịch. Tạp kịch phát triển đã tạo nên diện mạo riêng cho nền văn chương Trung Quốc ở thời Mông Nguyên.

II. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI


Trung Quốc nằm dưới ách thống trị của quân Mông. Mông Cổ đã thiết lập nên triều đại nhà Nguyên. Vì vậy xã hội Trung Quốc thời này có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn dân tộc. Nổi bật là mâu thuẫn dân tộc.

Thế kỉ XIII đế quốc Mông Cổ bành trướng thế lực. Mông Cổ đánh xuống phương Nam đồng thời tiến đánh vùng Trung Á, đánh Nga, Ðông Âu. Mông Cổ trở thành một đế quốc án ngự giữa hai châu lục Âu-Á. Khi đế quốc Mông Cổ bành trướng thế lực Trung Quốc bị chia làm hai miền: miền Bắc do nhà Kim (ngoại tộc), miền Nam do Nam Tống (Hán tôc) thống trị.

1210, Mông Cổ đánh nhà Kim.

1234, Mông Cổ đã chiếm được phần đất nhà Kim.

1267, Mông Cổ cất quân đánh Nam Tống.

1279, toàn bộ đất đai của Nam Tống bị lọt vào tay Mông Cổ. Mông Cổ trong thời này còn ở tình trạng lạc hậu. Họ sống bằng nghề chiến tranh, cướp bóc. Quân của Mông Cổ rất giỏi cưỡi ngựa, bắn cung. Khi quân Mông Cổ xâm lược Trung Quốc, đi đến đâu họ tàn phá đến đó, khiến cho bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu thành phố ở Trung Quốc lâm vào cảnh tiêu điều xơ xác.

1. Kinh tế:

Nông nghiệp Trung Quốc thời Mông Nguyên không phát triển bởi triều Nguyên không trọng nông ức thương như các triều đại Hán tộc trước đó. Thời này, ruộng đất của nông dân Trung Quốc hầu hết bỏ hoang vì chiến tranh, một phần còn lại bị quân Mông Cổ chiếm đoạt. Người nông dân sản xuất không được là bao, lại bị thiên tai dồn dập và phả chịu thuế khóa rất nặng nề. Họ không có ruộng cày và lâm vào tình trạng đói kém, bị biến thành công nô hay nông nô. Người nông dân ở phương Bắc của Trung Quốc không chịu được sự bóc lột quá nặng nề, nên họ đã tìm xuống phương Nam, mong có một cuộc sống đỡ hơn. Nhưng chạy trời không khỏi nắng- tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa, khi họ xuống phương Nam thì đời sống của nông dân phương Nam cũng khó khăn chẳng khác gì đời sống của người nông dân phương Bắc. Ðời sống của nông dân cả nước hết sức cùng quẫn bế tắc. Cho nên nông nghiệp Trung Quốc dưới triều Mông Nguyên có phần tiêu điều.

Thủ công nghiệp-thương nghiệp: Triều đại nhà Nguyên có sự phát triển khá cao của thủ công nghiệp và thương nghiệp. Quan lại triều đình Mông Nguyên rất coi trọng thương nghiệp. Giao thông đường bộ và đường biển đều được mở mang, tạo điều kiện cho việc thông thường, giao dịch, trao đổi hàng hóa. Nếu như trước kia, Trung Quốc nằm trong tình trạng bế quan tỏa cảng thì đến triều Nguyên, Trung Quốc đã thông thương với Châu Âu và các nước vùng Trung Á cũng như các nước vùng Ðông Nam Á. Các bến cảng cũng tấp nập thuyền bè buôn bán ra vào. Việc đi lại, giao lưu giữa Trung Quốc với các nước khác đã trở nên dễ dàng. Nhờ vậy việc trao đổi buôn bán đã diễn ra khá sôi nổi, nhộn nhịp mà trước đó chưa từng có. Các địa khu, các đô thị trên cả nước đều trở nên sầm uất. Ðại Ðô (ngày nay là Bắc Kinh) không chỉ là trung tâm chính trị của cả nước mà đã thực sự trở thành một trong những trung tâm kinh tế nổi tiếng nhất thế giới. Máccô Pôlô-một nhà quan sát thị trường người Italia, sau chuyến đến quan sát thị trường Trung Quốc vào thời này, đã viết trong cuốn du kí của ông những lời ca ngợi, đề cao đối với nền công-thương nghiệp của Trung Quốc dưới triều nhà Nguyên. Ông đã cho rằng: các nơi Nam Bắc Trung Quốc, đô thị buôn bán như sao sa. Ở Hàng Châu đã xuất hiện một số phường dệt có quy mô lớn. Nghề in ấn, nghề làm giấy, nghề làm thuốc súng, nghề làm kim chỉ nam (la bàn) được truyền vào Châu Âu từ đời nhà Nguyên. Kinh tế đô thị phát triển, nên tầng lớp thị dân càng đông đúc và trưởng thành. Ðây là yếu tố quan trọng làm nảy sinh thị hiếu thẩm mỹ mới.

2. Chính trị:

Sau khi lên nối ngôi (1260), Hốt Tất Liệt áp dụng kiến nghị: phải thi hành Hán pháp thì mới giữ vững được lâu dài. Tuy thi hành theo Hán pháp, nhưng mâu thuẫn dân tộc vẫn ngày càng trở nên sâu sắc bởi triều Nguyên dựa vào Hán pháp để thẳng tay áp bức người Hán. Nhà Nguyên đã thực hiện tứ đặng nhân chế, chia quốc dân trong nước ra thành bốn đẳng cấp, hay nói cách khác là chia quốc dân thành bốn hạng người: hạng cao quý nhất được dành cho người Mông Cổ, hạng thứ hai là người sắc mục (mắt có màu) ở vùng Tây Vực và Tây Hạ, hạng thứ ba là người Cao Li, người Khiết Ðan và người Hán ở phương Bắc, hạng cuối cùng là người Hán ở phương Nam. Không những thế triều Nguyên còn chia xã hội thành mười thứ người: nhất quan, nhì lại, ba tăng đồ, bốn đạo sĩ, năm thầy thuốc, sáu thợ thuyền, người đi săn, tám con hát, chín nho sĩ, văn nhân nghệ sĩ, mười là kẻ hành khất.

Hệ thống quan lại từ trung ướng xuống các địa phương hầu hết là người Mông Cổ, có một ít là người sắc mục. Rất hiếm người Hán được làm quan và nếu có cũng chỉ được làm quan nhỏ.

Mặt khác, sợ nhân dân Trung Quốc chống lại, triều Nguyên đã dadựt ra những luật lệ cấm đoán rất khắt khe như cấm tàng trữ binh khí, cấm tập luyện võ nghệ, cấm đi săn, cấm nuôi ngựa, cấm họp nhau cầu đạo, tế thần, cấm họp chợ mua bán, cấm thắp đèn ban đêm.

3. Văn hóa-giáo dục:
Triều Nguyên không trọng Nho giáo mà sùng tín Phật giáo và Ðạo giáo. Sức mạnh thống trị về tư tưởng của Nho giáo bị giảm sút rất nhiều so với các triều đại trước đó.

Thời này, chế độ thi cử bị bãi bỏ, khiến cho các nho sĩ, văn nhân nghệ sĩ mất hết đường sống. Họ đã tổ chức thành các Thư hội để biểu diễn và sáng tác tạp kịch. Thư hội gồm các tài nhân là những tác gia của các kịch bản tạp kịch thời Mông Nguyên.

Mông Cổ thống trị Trung Quốc cũng đã mang những yếu tố lạ của văn hóa Mông Cổ vào Trung Quốc, làm phong phúc thêm nền văn hóa Trung Quốc dưới triều Nguyên.

III. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VĂN CHƯƠNG


Nét nổi bật của văn chương thời Mông Nguyên là sự phát triển rực rỡ của tạp kịch. Nếu như thời Hán có sự phát triển của thể phú, thời Ðường có sự phát triển của thơ ca, thời Tống có sự phát triển rực rỡ của từ (biến thức của thơ) và thời Minh-Thanh sau này có sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết cổ điển thì thời Mông Nguyên có sự phát triển đạt đến mức hoàng kim của thể tạp kịch.

Trên văn đàn Trung Quốc thời này cũng có sự phát triển của thơ nhưng thơ chủ yếu là do quan lại người Trung Quốc làm tay chân cho người Mông Cổ sáng tác. Xét về số lượng thì nhiều, nhưng về chất lượng thì thơ ca Trung Quốc thời này đi vào sự sáo mòn về câu chữ, nghèo nàn về nội dung. Nhiều bài thơ chủ yếu đi vào thú vui chơi hoặc ca công tụng đức đối với giai cấp thống trị và mang nặng tư tưởng nô lệ.

Bên cạnh khuynh hướng văn chương ấy, còn có một khuynh hướng dựa trên văn chương dân gian để phát triển và tạo được những thành tựu, văn chương mới đáp ứng yêu cầu của thời đại. Ở khuynh hướng văn chương này có sự phát triển của khúc còn gọi là Nguyên khúc. Khúc bao gồm tản khúc và tạp kịch.

Thời này có sự phát triển của tản khúc. Ðội ngũ sáng tác tản khúc có tên tuổi gồm 187 tác gia. Thực chất của tản khúc cũng là thơ. Tản khúc kế thừa những làn điệu dân ca thời Kim (1115-1234). Tản khúc giống Tống từ ở chỗ dựa vào làn điệu để sáng tác và hòa âm nhạc vào để hát. So với Tống từ thì tản khúc có nhiều yếu tố được cách tân, đặc biệt là về hình thức. Ngôn ngữ của Tống từ thường được gọt giũa trau chuốt, còn ngôn ngữ của tản khúc thì lại rất gần gũi với ngôn ngữ của quảng đại quần chúng nhân dân, rất giản dị và mộc mạc. Về số từ và số tiếng trong những câu của Tống từ đều được quy định chặt chẽ. Còn số tiếng trong mỗi câu của tản khúc thì có phần tự do, cởi mở và uyển chuyển hơn. Trong một bài tản khúc có câu dài đến hàng chục tiếng nhưng có câu chỉ có hai, ba tiếng. Về âm luật thì tản khúc cũng rất thoáng. Nội dung vẫn chưa thoát khỏi những tình điệu xưa, có những bài tản khúc chỉ là những lời than thở, trách phận hay thể hiện tình cảm riêng tư. Bên cạnh đó, cũng có những bài tản khúc đã phản ánh những nét thực tại của đời sống lúc bấy giờ. Như vậy tản khúc thời Mông Nguyên có hai khuynh hướng. Khuynh hướng hướng nội (nghiêng về bộc lộ tình ảm bên trong) và khuynh hướng hướng ngoại (nghiêng về phản ánh thực tại bên ngoài). So với nội dung của Tống từ thì tản khúc thiếu hẳn cái khí vị hào hùng của Tống từ với tên tuổi của Lục Du, Tô Ðông Pha, Tân Khí Tật. Những tác giả tản khúc nổi tiếng thời này là Trương Dưỡng Hạo, Lưu Thời Trung, Quan Hán Khanh, Bạch Phác, Mã Trí Viễn, Trương Khả Cửu, Kiều Cát...

Nhưng sự phát triển của văn chương thời này không chỉ là sự phát triển của tản khúc mà chủ yếu là sự phát triển của tạp kịch. Tạp kịch thời này phát triển mạnh mẽ chưa từng có trong suốt cả tiến trình phát triển văn chương Trung Quốc. Tạp kịch là loại ca vũ kịch của Trung Quốc, còn gọi là hí khúc. Sự phát triển tạp kịch thời Mông Nguyên dựa trên cơ sở của loại hình sân khấu đã có trước đó như Ðạp dao nương, Viện bạn và Chư cung điệu thời Tống-Kim. Loại hình sân khấu dân gian chư cung điệu là loại hình sân khấu sơ khai, diễn viên chỉ có một người vừa nói, vừa hát và trình diễn bất kì chỗ nào. Tạp kịch là một bước phát triển so với chư cung điệu. Nó phát triển ở chỗ loại hình sân khấu này có yếu tố gần gũi với sân khấu hiện đại , có nhiều diễn viên, các diễn viên vừa nói vừa hát, có cả múa nữa. Có sân khấu được trần thiết, diễn viên được hóa trang có nhạc nền, lời hát của diễn viên tạp kịch lấy từ tản khúc.

Số lượng kịch bản tạp kịch thời này rất nhiều, có trên 700 kịch bản tạp kịch. Ðội ngũ sáng tác kịch bản tạp kịch thời này cũng khá đông. Các tác gia tạp kịch nổi tiếng thời Nguyên gồm: Quan Hán Khanh, Bạch Phác, Mã Trí Viễn, Trịnh Quang Tổ. Bốn tác gia tạp kịch này đã được gọi là Nguyên khúc tứ đại gia

Sở dĩ kịch bản tạp kịch thời này phát triển mạnh là bởi những nguyên nhân sau đây:

Thời Nguyên kinh tế đô thị phát triển chưa từng có trước đó. Nên tầng lớp thị dân cũng phát triển. Vì vậy, thị hiếu thẩm mỹ của tầng lớp thị dân có sự thay đổi. Lúc này tầng lớp thị dân ham thích đi xem biểu diễn tạp kịch nên tạp kịch phát triển.

Quan quân Mông Nguyên rất thích xem vũ kịch. Ðây là một điều kiện để tạp kịch phát triển.

Dưới triều Nguyên chế độ thi cử bị bãi bỏ. Nên tầng lớp nho sĩ, văn nghệ sĩ mất hết đường sống, họ đã tìm đến con đường sáng tác và biểu diễn tạp kịch, họ lập ra các thư hội và sáng tác tạp kịch.

Dân tộc Trung Hoa bị áp bức nặng nề. Văn chương nói chung và đặc biệt tạp kịch nói riêng của Trung Quốc thời này đã trở thành tiếng nói đòi tự do. Trong một dân tộc bị tước mất tự do xã hội, văn chương là diễn đàn duy nhất mà từ đỉnh cao đó nó buộkc người ta phải nghe tiếng kêu bất bình và tiếng gào thét của ý thưc mình (Ghecxen).

Lực lượng sáng tác tạp kịch thời này khá đông, các tác gia tạp kịch có tên tuỏi là trên 200 người. Họ bị quan quân Mông Cổ đẩy xuống tận dưới đáy xã hội nên đời sống của họ rất gần gũi với các tầng lớp bị áp bức, bóc lột nặng nề trong xã hội. Lực lượng này vừa sáng tác cũng vừa tham gia biểu diễn cùng với các diễn viên tạp kịch. Do đời sống của họ gần gũi với các tầng lớp bị áp bức nên họ sớm nói được tiếng lòng của quần chúng lao động.

Tư tưởng nhân đạo của các tác gia tạp kịch được biểu hiện trong kịch bản, hoàn toàn không có sự cách bậc với quần chúng, không có thứ chủ nghĩa nhân đạo kiểu thư phòng (chữ dùng của Ăngghen).

Tác phẩm tạp kịch thời này tập trung vào 3 đề tài lớn là tình yêu, công án và lịch sử:

Ðề tài tình yêu trong kịch bản tạp kịch chứa đựng tiếng nói đấu tranh đòi quyền tự do yêu đương (tiêu biểu nhất là Tây Sương Kí của Vương Thực Phủ).

Ðề tài công án thường xuất hiện vai trò của Bao Công, đề cao công lí, ca ngợi chính nghĩa (tiêu biểu là vở Ðậu Nga oan, Hồ điệp mộng của Quan Hán Khanh).

Ðề tài lịch sử gợi lại những sự kiện lịch sử, kích thích tinh thần đấu tranh của quần chúng (tiêu biểu là kịch bản Ðơn đao hội của Quan Hán Khanh).

Trong kịch bản của tạp kịch, tiếng nói đấu tranh đòi quyền sống, đòi tự do được thể hiện rất sâu kín. Tuy vậy, tư tưởng chủ đề ở nhiều kịch bản tạp kịch lại được thể hiện khá rõ. Hầu hết các kịch bản tạp kịch đều tập trung ca ngợi chính nghĩa, phản đối phi nghĩa, lên án bất công, cường bạo.

Về hình thức nghệ thuật, nhiều kịch bản tạp kịch đã đạt được những thành tựu đáng kể. Ngôn ngữ trong kịch bản tạp kịch gần gũi với lời ăn tiếng nói của nhân dân. Lời trong kịch bản tạp kịch được lấy từ trong tản khúc.

Nhiều tác gia tạp kịch đã kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn khi tạo dựng chi tiết và xây dựng nhân vật. Một số tác gia khi xây dựng nhân vật trong kịch bản tạp kịch đã khắc họa được chiều sâu nội tâm của nhân vật. Kết cấu của kịch bản tạp kịch là kết cấu theo trình tự thời gian. Kết thúc một kịch bản tạp kịch thường là kết thúc có hậu- chính nghĩa thắng gian tà.

Nội dung cũng như hình thức nghệ thuật kịch bản tạp kịch rất giàu tính nhân dân.
 

cohonnhien

Thành viên
#7
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p7)

QUAN HÁN KHANH (1220?-1300?)
VỚI KỊCH BẢN TẠP KỊCH ÐẬU NGA OAN


I. MẤY NÉT VỀ QUAN HÁN KHANH


Quan Hán Khanh còn có hiệu là Dĩ Trai (Nhất Trai) là kịch tác gia lớn nhất của thời Mông Nguyên. Ông là người đặt nền tảng cho tạp kịch thời Nguyên và thực sự đã đem lại niềm vinh quang cho tạp kịch Trung Quốc cũng như văn chương Trung Quốc thời này. Trịnh Chấn Ðạc- một nhà văn hiện đại Trung Quốc- khi nói về Quan Hán Khanh đã cho rằng: Có thể nói: thời hoàng kim của tạp kịch Nguyên, nếu không có Quan Hán Khanh, cũng khó mà có được cái vẻ xán lạn như ta đã thấy trên lịch sử văn chương Trung Quốc. Ông người ở Ðại Ðô (Bắc Kinh). Ông sinh vào khoảng 1220 và mất vào khoảng 1300. Ông sáng tác nhiều kịch bản tạp kịch. Số kịch bản tạp kịch Quan Hán Khanh viết có 66 tác phẩm, hiện nay còn lại 18 tác phẩm. Trong số còn lại có những vở tạp kịch nổi tiếng: Ðậu Nga oan, Vọng giang đình, Bái nguyệt đình, Ðơn đao hội, Hồ điệp mộng. Thời nhà Kim, ông đã từng làm y quan trong thái y viện. Sau khi nhà Kim đổ (1234) ông rời bỏ Ðại Ðô và đi xuống Hàng Châu ở phương Nam. Lúc này ông đã già. Ông vừa sáng tác vừa biểu diễn tạp kịch như là các diễn viên. Ði đây đi đó nhiều, nên ông có vốn sống phong phú để viết tạp kịch. Ông không chỉ là tác gia tạp kịch số một mà ông còn sáng tác nhiều tản khúc nữa.

Mặc dù Quan Hán Khanh là một tác gia tạp kịch lớn nhưng tên tuổi và văn nghiệp của ông vào thời ấy chưa được đánh giá cao. Các nhà nghiên cứu văn chương của Trung Quốc đã dựa vào Lục quỷ ba của Thiên Nhất Các và nội dung của tác phẩm mà ông đã để lại để tìm hiểu về ông. Trong bài tản khúc Bất phục lão, Quan Hán Khanh đã bộc lộ tình cảm cũng như bản lĩnh và tính cách của ông. Ðây là bài tản khúc mang tính tự thuật. Quan Hán Khanh đã xem mình là người ở chốn ca lâu tửu quán nhưng không hề ham thích tửu sắc tục tằn. Ông bày tỏ niềm vui sướng của ông là ngắm trăng, làm thơ, ca hát, hướng vào cái đẹp, những cảm xúc thẩm mỹ tinh tế và khoáng đạt. Ông nguyện đem sức mình và tài năng của mình để phục vụ cho các diễn viên. Ông đã tự ví mình như một chú gà rừng lão luyện, tinh thông, luôn phát hiện ra dấu chân của người đi săn và không bao giờ bị sa vào cạm bẫy. Có lúc ông tự ví mình như là hạt đậu đúc bằng đồng không sợ nghiền, nấu, hầm, xào. Bằng những hình tượng này, Quan Hán Khanh đã thể hiện một bản lĩnh kiên cường, rắn rỏi, không chấp nhận mọi sự luồn cúi, xu nịnh. Trong nhiều vở tạp kịch, Quan Hán Khanh đã làm bật nổi hình tượng nhân vật phụ nữ mang vẻ đẹp của người phụ nữ Trung Quốc.

*Ở kịch bản Hồ điệp mộng, nhân vật chính là bà Vương - mẹ của Vương Ðại, Vương Nhi và Vương Tam. Vương Ðại, Vương Nhi là con riêng của ông Vương, còn Vương Tam mới là con ruột của bà. Ông Vương vô cớ bị Cát Bưu giết chết làm cho ba con tức giận lập mưu giết chết Cát Bưu. Ba con phải ra tòa và bị Bao Công xử án bắt buộc một trong ba người phải có một người chịu án tử hình. Vương Ðại, Vương Nhi và Vương Tam đều tự nhận cái chết về mình. Trước tình hình đó, Bao Công đã giao cho bà Vương quyết định. Cuối cùng bà Vương quyết định là Vương Tam phải chết thay cho hai anh. Bao Công xúc động trước tấm lòng của bà Vương nên đã hòan tòan tha bổng Vương Tam.

* Ở kịch bản Vọng giang đình; nhân vật chính là Ðàm Kí Nhi-một phụ nữ có nhan sắc, can đảm và nhiều mưu trí.Tên quan hung bạo Dương Nha Nội không chiếm được nàng Ðàm Kí Nhi, bèn lập kế hãm hại người chồng mới cưới của nàng. Tính mạng của chồng và hạnh phúc của nàng bị đe dọa nghiêm trọng. Ðàm Kí Nhi cải trang làm người bán cá tìm cách đánh tráo được ngay bên mình của Dương Nha Nội tấm thẻ vàng và thanh gươm mà vua ban cho nó để làm tội chồng nàng. Nhờ đó, nàng cứu được chồng và kẻ gian bị vạch mặt.

II. KỊCH BẢN TẠP KỊCH ÐẬU NGA OAN, (còn có tên là TUYẾT GIỮA NGÀY HÈ hay CẢM THIÊN ÐỘNG ÐỊA ÐẬU NGA OAN)


1. Nguồn gốc cốt kịch: Quan Hán Khanh dựa vào tích truyện đã có trong cuốn Liệt nữ truyện của Lưu Hướng đời Tây Hán thế kỉ I trước Công Nguyên.

2. Cốt kịch: ở Sở Châu có người đàn bà tên là Ðoan Vân. Ðoan Vân mồ côi mẹ từ nhỏ, sống với bố là Ðậu Thiên Chương. Ðậu Thiên Chương-một ông đồ nghèo phải vay bạc của bà Thái. Ðến lúc đi thi, Ðậu Thiên Chương vẫn chưa có bạc trả, nên gán con gái của mình cho bà Thái. Sau đó, Ðoan Vân tới ở nhà bà Thái. Lớn lên, nàng chính thức làm dâu bà Thái. Nàng lấy chồng được hai năm thì chồng chết. Nàng ở vậy thờ chồng và nuôi mẹ chồng. Bà Thái sống bằng nghề cho vay nợ lãi. Thầy lang Trại Lô vay bạc của bà, nhưng ông ta không có tiền để trả. Nên khi bà Thái tới đòi, thầy lang đã dụ bà ra đồng vắng rồi treo cổ bà lên. Nhân lúc ấy, cha con Trương Lư đi qua, nên bà được cứu thoát. Cảm động trước công ơn của bố con Trương Lư, bà Thái đã kể rõ sự tình. Nghe bà Thái kể, Trương Lư đã nói với bố hắn rằng: hắn thì lấy con dâu bà Thái còn bố hắn thì lấy bà Thái làm vợ. Lúc đầu bà Thái không chấp nhận. Nhưng sau đó, trước sự dọa dẫm của Trương Lư, bà Thái đã phải ưng thuận. Khi về tới nhà, bà Thái đã khuyên Ðậu Nga lấy Trương Lư. Nhưng Ðậu Nga một mực cự tuyệt. Trương Lư tìm mọi cách để ép buộc Ðậu Nga lấy hắn.Trước sự cứng rắn và kiên định của Ðậu Nga, Trương Lư đã lập mưu đánh thuốc độc để giết bà Thái nhằm đẩy Ðậu Nga vào thế cô độc cho dễ bề ép buộc và mặt khác để chiếm toàn bộ gia sản của bà Thái. Mưu thâm của Trương Lư không thành. Bố của hắn đã trúng thuốc độc mà chết. Trương Lư đã dùng cái chết của bố hắn để làm áp lực đối với Ðậu Nga. Ðậu Nga vẫn một mực từ chối. Sau đó, Ðậu Nga và Trương Lư phải lên hầu kiện. Viên quan huyện Ðào Ngột đã lôi Ðậu Nga ra đánh, khiến nàng chết đi sống lại nhiều lần, song nàng vẫn không nhận cái điều mà nàng không hề làm là đánh thuốc độc bố Trương Lư. Bất lực trước sự kiên định của Ðậu Nga, quan huyện Ðào Ngột đã cho bắt bà Thái tới và đánh đập bà. Khi chứng klến cảnh mẹ chồng bị đánh đập, hành hạ, Ðậu Nga không thể chịu được. Nàng nghĩ thà mình bị hãm hại, chứ không thể chấp nhận để cho người mẹ chồng bị hành hạ. Vì thế, nàng đã nhận cái điều mà nàng không làm. Như vậy là nàng đã nhận bản án tử hình về mình để cho người mẹ chồng được thoát khỏi sự đau đớn. Trước khi ra pháp trường, nàng đã xin bọn lính giải nàng đi theo một nẻo đường khác mà không qua cửa nhà nàng bởi nàng sợ nếu mẹ chồng nàng trông thấy cảnh ấy thì bà sẽ rất đau khổ. Ðậu Nga đã giành trọn tình cảm của mình cho người mẹ chồng, trước khi nàng bị chết. Khi tới pháp trường, nàng đã xin giám trảm quan trải lên vạt đất chỗ nàng đứng một chiếc chiếu sạch và nàng đã đưa ra ba điều ước nguyện:

Một là: Nếu nàng chết oan, máu của nàng sẽ không chảy xuống đất mà bắn lên nhuộm đỏ giải lụa trắng treo trên cái cột cờ cạnh đấy.

Hai là: Nếu nàng chết oan thì tuyết sẽ rơi xuống phủ kín thi thể nàng (mặc dù đang giữa tiết tháng sáu).

Ba là: Nếu nàng chết oan thì vùng Sở Châu phải chịu hạn hán ba năm liền.

Nàng đã được như nguyện. Vì Sở Châu bị hạn hán ba năm liền, nên triều đình biết có vụ án xử oan. Triều đình đã phái Ðậu Thiên Chương về Sở Châu để truy xét lại các vụ án. Lúc này Ðậu Thiên Chương đã làm quan đề hình. Một hôm đang xem lại các hồ sơ của những vụ án đã xử, Ðậu Thiên Chương xem tới hồ sơ của Ðậu Nga, ông ta đã ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ thiêm thiếp của Ðậu Thiên Chương, hồn ma của Ðậu Nga đã hiện về kêu khóc. Cuối cùng, nỗi oan của Ðậu Nga đã được giải tỏa. Vở kịch kết thúc có hậu.

3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của kịch bản Ðậu Nga oan:

_ Ðề tài công án

_ Chủ đề: quyền sống của người phụ nữ Trung Quốc bị vùi dập, chà đạp dưới chế độ Mông Nguyên.

_ Tư tưởng chủ đề: tác giả ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Trung Quốc đồng thời tố cáo sự tàn bạo của chế độ xã hội thời Mông Nguyên.

Ðậu Nga oan: là bản cáo trạng đanh thép đối với bản chất tham lam tàn bạo của chế độ xã hội thời Mông Nguyên. Trong kịch bản tạp kịch này có bóng dáng của triều đình-cơ quan trung ương tập trung quyền lực cao nhất của chế độ xã hội Mông Nguyên. Vụ án Ðậu Nga là vụ án lớn đến mức cảm thiên động địa nhưng triều đình hoàn toàn không hay biết gì. Mãi đến khi Ðậu Nga bị xử oan, vùng Sở Châu bị hạn hán ba năm liền thì triều đình mới nghi ở vùng Sở Châu có vụ án xử oan. Ðiều này chứng tỏ triều đình rất quan liêu. Do vậy, quan lại ở các địa phương tha hồ tung hoành, sát phạt, làm mưa làm gió.

Nhân vật Ðào Ngột trong kịch bản tạp kịch tiêu biểu cho bọn quan lại địa phương. Ðào Ngột làm quan huyện vùng Sở Châu. Ngay từ phút đầu tiên xuất hiện trong kịch bản và trên sân khấu, nhân vật này đã tự bộc lộ bản chất của hắn. Ðào Ngột đã nói: Ta làm quan hơn người khác, đến kiện cáo phải mang vàng bạc đến ta mới xử cho, không thì ta cáo bệnh không ra công đường. Ðào Ngột là quan huyện trực tiếp xử nhiều vụ án. Công việc xử án đòi hỏi người xét xử phải có đầy đủ ba yếu tố: một là phải có lương tâm, hai là phải dựa vào công lí, ba là phải dựa vào pháp luật. Ngôn ngữ của nhân vật Ðào Ngột chứng tỏ Ðào Ngột hoàn toàn không có được ba điều kiện cần và đủ của người đứng ra xét xử một vụ án. Ðộng lực xử án của nhân vật Ðào Ngột không còn là lương tâm, là công lí, pháp luật mà đối với hắn chỉ là bạc vàng. Ngôn ngữ tự giới thiệu của Ðào Ngột cũng đã phản ánh một phần bản chất tham lam và bạo ngược của giai cấp thống trị thời ấy. Ðó là một thời đại, nén bạc đâm toạc tờ giấy, vàng bạc đã chà đạp lên tất cả, làm khuynh đảo mọi giá trị. Khi Trương Lư và Ðậu Nga vào hầu kiện, Ðào Ngột đã quỳ xuống lạy hai người trong sự ngạc nhiên của hai tên lính hầu: Bẩm quan lớn, bọn chúng nó là những kẻ đến hầu kiện sao quan lớn lại quỳ lạy chúng nó. Không một chút ngần ngại, Ðào Ngột đã trả lời ngay: Mày không biết những kẻ đến kiện cáo là những kẻ đem cơm áo lại cho ta. Ðộng lực xử kiện của Ðào Ngột là vàng bạc, vật chất. Nhân vật này hoàn toàn không đếm xỉa đến công lí, đến nhân phẩm. Nhân vật Ðào Ngột có ý nghĩa khái quát cao bởi mang được bản chất chung của giai cấp thống trị thời này.

Nhân vật Ðào Ngột còn là một tên quan tàn bạo. Khi Ðậu Nga tới, Ðào Ngột không cần xét hỏi mà đang tay đánh đập, vùi dập nàng đến mức khiến cho nàng chết đi sống lại.

Ðó là bản chất của giai cấp thống trị từ trên xuống dưới trong xã hội thời Mông Nguyên thượng bất chính, hạ tác loạn. Triều đình và quan lại như thế thì những kẻ xấu trong dân dễ có điều kiện để hoành hành. Các nhân vật thầy lang Trại Lô và bố con Trương Lư đã thể hiện một phần hạ tác loạn. Là một thầy thuốc, nhưng Trại Lô đã trở thành một tên lừa đảo. Trại Lô không có bạc để trả nợ cho bà Thái ông ta đã lừa bà Thái ra quảng đồng vắng và toan dùng sợi dây thừng để treo cổ bà lên. Hai nhân vật bố con Trương Lư là những kẻ vừa tham lam vừa tàn bạo đến táng tận lương tâm. Bà Thái sắp bị thầy lang Trại Lô treo cổ nhằm lúc bố con Trương Lư đi qua nên bà Thái được cứu một cách ngẫu nhiên. Việc bà Thái được cứu thoát hoàn toàn không phải là công ơn của bố con Trương Lư. Khi nghe bà Thái kể rõ nguồn cơn Trương Lư đã nói về bố hắn rằng: bố hắn lấy bà Thái còn hắn lấy Ðậu Nga làm vợ. Trước bản lĩnh rắn rỏi của Ðậu Nga, Trương Lư vẫn không từ bỏ mọi thủ đoạn nhằm ép buộc Ðậu Nga lấy hắn. Hắn đã toan giết chết bà Thái để thực hiện hai âm mưu: một là đẩy Ðậu Nga vào thế cô độc để dễ bề ép buộc, hai là hắn cướp đoạt gia sản của bà Thái. Âm mưu của hắn không thành, hắn đã biến cái chết của bố hắn làm áp lực đối với Ðậu Nga. Chính hắn đã vu oan giá họa cho Ðậu Nga. Hắn còn tỏ ra rất ngoan cố chối tội khi Ðậu Thiên Chương hỏi tội hắn.

Với những nhân vật trên, Quan Hán Khanh đã lột trần chân tướng của xã hội thời Mông Nguyên, phanh phui bản chất tham lam, tàn bạo của giai cấp thống trị. Nên giá trị hiện thực của kịch bản rất cao.

_ Kịch bản Ðậu Nga Oan là khúc bi ca của tư tưởng nhân đạo: Nhân vật trung tâm của vở kịch này là một người phụ nữ Trung Quốc. Ðó là nàng Ðậu Nga. Nhân vật Ðậu Nga là hiện thân của lí tưởng đạo đức và lí tưởng thẩm mĩ của Quan Hán Khanh. Quan Hán Khanh đã tập trung nhiều vẻ đẹp phẩm chất cho nhân vật này. Ðậu Nga sinh ra trong một gia đình nghèo năm lên bảy tuổi nàng mồ côi mẹ và sau đấy phải đến ở nhà bà Thái để lớn lên làm con dâu cho nhà bà theo tục đồng dưỡng tức. Lấy chồng được hai năm thì chồng chết. Ðậu Nga quyết không đi bước nữa, mà đã ở vậy thờ chồng và nuôi mẹ chồng. Nhân vật Ðậu Nga là hiện thân của sự hiếu thảo đến mức hiếm có. Ðậu Nga đã giành cả tình cảm của mình cho mẹ chồng. Chứng kiến thấy cảnh bà Thái bị Ðào Ngột đánh đập, Ðậu Nga thà chịu chết chứ không chịu được cảnh người mẹ chồng bị hành hạ. Nên nàng đã nhận việc mà nàng không làm. Ðậu Nga đã phải chịu án tử hình. Ðây là biểu hiện tấm lòng vị tha cao cả của Ðậu Nga. Ðậu Nga giành cả tình cảm của mình cho người mẹ chồng ngay khi sắp bị xử chém. Nên lúc bọn lính giải Ðậu Nga ra pháp trường, nàng đã xin chúng giải đi đường khác mà không đi qua cửa nhà nàng. Bởi nàng sợ người mẹ chồng trông thấy bà sẽ vô cùng đau xót. Ðậu Nga là một người con dâu nhưng tình cảm của nàng đối với người mẹ chồng thì đã hoàn toàn vượt lên trên những tình cảm bình thường. Quan Hán Khanh đã xây dựng nhân vật Ðậu Nga bằng phương thức lí tưởng hóa.

Ðậu Nga không chỉ là người con dâu hiếu thảo mà còn là người phụ nữ có bản lĩnh kiên trinh. Mặc Trương Lư tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn để ép buộc nàng lấy hắn, nàng vẫn khư khư giữ trọn tấm lòng, ý chí của mình. Khi bà Thái chấp thuận lấy bố Trương Lư và khuyên Ðậu Nga lấy Trương Lư thì nàng vẫn một mực từ chối dù nàng hết sức thương mẹ chồng và luôn nghe theo lời mẹ chồng. Song nàng vẫn nhận rõ những giải pháp cần thiết để giữ vững bản lĩnh vốn có của nàng. Ðào Ngột đã đánh đập nàng đến mức khiến cho nàng chết đị sống lại, nàng đã không nhận cái việc nàng không làm. Phải chăng nhân vật này mang cốt cách của hình tượng hạt đậu đúc bằng đồng không sợ nghiền, nấu, hầm, xào trong bài tản khúc Bất phục lão?.

Việc nàng nhận án chém không hềì trái với bản lĩnh của nàng. Ðây không phải là một sự mềm yếu mà đó là giải pháp của tình thương - giải pháp của tấm lòng vị tha. Bản lĩnh của Ðậu Nga còn thể hiện ở chỗ nàng chọn cho mình một cái chết thật đẹp. Trước khi chết Ðậu Nga đã xin giám trảm quan trải lên vạt đất chỗ nàng đứng một chiếc chiếu sạch. Hình ảnh chiếc chiếu sạch mang đầy đủ ý nghĩa tượng trưng cho sự tinh khiết, trong trắng như chính phẩm chất của nàng. Trước khi bị chết, Ðậu Nga còn chửi trời, chửi đất, chửi những kẻ bạo ngược và nàng đã đưa ra ba điều ước nguyện.

Ðã chết thì chết thế nào chẳng được, nhưng Ðậu Nga- người phụ nữ Trung Quốc này không cam chịu chết trong im lặng mà cái chết của nàng tiếp tục thể hiện bản lĩnh và ý chí quật cường của người phụ nữ kiên trinh. Ba chi tiết trong ba lời ước nguyện của nhân vật có sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn, tạo nên nhiều tầng bậc ý nghĩa sâu xa. Ðặc biệt là chi tiết ở lời ước nguyện một và hai ân chứa ý nghĩa tượng trưng và đậm đà phong vị lãng mạn. Máu của Ðậu Nga cũng như mọi vật có trọng lượng khác đều phải rơi theo phương trọng lực. Vậy mà ở đây máu của Ðậu Nga đã phun thẳng lên trời. Chi tiết này thể hiện trọng lực không thể nào thắng được động lực của nỗi oan chất ngất, khí uất đầy trời. Những giọt máu của Ðậu Nga phun lên như chính nỗi oan ức của Ðậu Nga bốc lên đến tận trời. Chi tiết trong lời ước nguyện thứ hai của Ðậu Nga có ý nghĩa tượng trưng cho cả phẩm giá trong trắng của nàng. Thi hài của nàng không phải được khâm liệm bằng quan tài mà bằng những lớp tuyết tinh khiết trong suốt, mềm mại. Cái chết của nàng giống như cái chết của một thiên thần. Chi tiết trong lời ước nguyện thứ ba không có ý nghĩa tượng trưng, phải chăng đã trái với lòng vị tha của Ðậu Nga?. Hoàn toàn không phải như vậy mà chính là một cách để kêu oan cho thấu tới triều đình. Ðậu Nga chết rồi nhưng hồn oan của Ðậu Nga đã hiện về trong giấc ngủ của Ðậu Thiên Chương để kêu oan. Ðây cũng là một chi tiết thể hiện tinh thần bất khuất của nàng. Quan Hán Khanh đã sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật mà tiêu biểu nhất là kết hợp giữa yếu tố hiện thực và yếu tố lãng mạn để đề cao vẻ đẹp phẩm chất của Ðậu Nga, ca ngợi những người phụ nữ Trung Quốc mang tinh thần dân tộc thật sự có bản lĩnh rắn rỏi, không chịu sống quỳ. Ðề cao vẻ đẹp về phẩm chất của nhân vật Ðậu Nga, Quan Hán Khanh đã tạo nên giá trị nhân đạo cho tác phẩm của mình. Không những thế mà bằng nhiều chi tiết nghệ thuật, Quan Hán Khanh đã làm bật nổi được khát vọng tự do, khát vọng công lí của những người dân Trung Quốc thời này. Ba chi tiết trong ba lời ước nguyện của nhân vật Ðậu Nga và kết thúc có hậu đã làm cho kịch bản tạp kịch này trở thành giấc mơ công lí- khát vọng giải phóng của nhân dân Trung Quốc. Khi tác phẩm thể hiện khát vọng chân chính của con người như là nhu cầu trần tục của con người trần tục thì tác phẩm ấy sẽ có giá trị nhân đạo rất cao, như cách luận giải của Vônghin: Chủ nghĩa nhân đạo là một quan điểm đạo đức và chính trị, không phải xuất phát từ những nguyên tắc nào đấy ở cõi âm-hoang tưởng, ở bên ngoài đời sống loài người mà xuất phát từ con người trần tục, tồn tại thực tế, với những nhu cầu và năng lực trần tục, thực tế,đòi hỏi phải được phát triển và thỏa mãn càng rộng và càng đầy đủ càng tốt trong đời sống trần tục. (Lược khảo lịch sử các tư tưởng xã hội chủ nghĩa, NXB Sự Thật 1979, trang 445).
 

cohonnhien

Thành viên
#8
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p8)

VƯƠNG THỰC PHỦ VỚI KỊCH BẢN TẠP KỊCH TÂY SƯƠNG KÍ
I.MẤY NÉT VỀ VƯƠNG THỰC PHỦ


Vương Thực Phủ là tác gia tạp kịch lớn thứ hai ở thời Mông Nguyên. Ông quê ở Ðại Ðô (Bắc Kinh) sinh sau Quan Hán Khanh ít lâu. Ông còn có tên là Dực Tín. Ông chỉ sáng tác trên 10 kịch bản tạp kịch mà kịch bản tạp kịch xuất sắc nhất của ông là Tây sương ký.

Trước đây có một giai đoạn giới nghiên cứu văn chương ở Trung Quốc không xem Vương Thực Phủ là tác giả của kịch bản tạp kịch này. Có người cho 16 chương đầu là do Vương Thực Phủ viết, còn 4 chương sau của kịch bản tạp kịch là do Quan Hán Khanh viết. Muốn xác định được tác phẩm này do ai viết thì phải căn cứ vào phong cacïh nghệ thuật. Phong cách nghệ thuật còn gọi là cá tính sáng tạo của nhà văn, nhà thơ. Theo Abơramôvic thì phong cách là: Sự tổng hòa những đặc trưng nổi bật về nội dung và nghệ thuật thường xuyên xuất hiện trong một loạt tác phẩm của một nhà văn nhất định. Trong báo cáo đọc tại Ðại hội lần ba của các nhà văn Việt Nam khai mạc 26-9-1983, nhà văn Nguyễn Ðình Thi đã cho rằng: Phong cách là chất tổng hợp tạo nên bản lĩnh của nhà văn. Phong cách là dấu ấn sáng tạo độc đáo của nhà văn, nhà thơ trong từng tác phẩm. Nó là dấu hiệu khiến cho người ta nhận ra nét riêng biệt của cái tôi sáng tạo của từng nhà văn nhà thơ.

Dựa vào phong cách nghệ thuật, sau này các nhà nghiên cứu văn chương của Trung Quốc đã khẳng định kịch bản Tây sương ký là của Vương Thực Phủ.

II. KỊCH BẢN TẠP KỊCH TÂY SƯƠNG KÝ


1. Nguồn gốc cốt kịch: cốt truyện đã có từ thời Ðường. Ở thời Ðường, Nguyên Chẩn tức Nguyên Vi Chi đã có tác phẩm truyền kì Hội chân kí (còn gọi là Oanh Oanh truyện). Ðến thời nhà Kim, Ðổng Giải Nguyên có kịch bản Tây sương kí chư cung điệu Vương Thực Phủ đã dựa bào tác phẩm của Ðổng Giải Nguyên để sáng tác nên kịch bản tạp kịch Tây sương kí.

2. Cốt kịch:

3. Giá trị nội dung và nghệ thuật của kịch bản Tây sương kí: kịch bản Tây sương kí viết về đề tài tình yêu. Vấn đề nổi bật trong kịch bản này là tình yêu và lễ giáo phong kiến. Tư tưởng chủ đề của kịch bản tạp kịch: ca ngợi tình yêu và tố cáo lễ giáo phong kiến chà đạp lên tình yêu đôi lứa.

a. Một tình yêu:

* Nhân vật Trương Quân Thụy vốn là một thư sinh. Trong buổi đầu của mối tình Thôi-Trương, tình cảm của Trương Quân Thụy trong trắng và đẹp. Trương Quân Thụy là người rất chủ động trong tình yêu, nhưng cái gì quá độ cũng sẽ biến thái. Ở những bước sau của mối tình, Trương Quân Thụy đã yêu Thôi Oanh Oanh đắm đuối, dẫn đến mù quáng bị động. Tất cả mọi suy nghĩ và việc làm của chàng nhất nhất đều theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa. Ðối với Trương Quân Thụy chỉ có Thôi Oanh Oanh. Việc Trương Quân Thụy góp lễ vật để làm chay cho Thôi Tướng Quốc hoàn toàn không phải là việc làm vì nghĩa mà vì thủ đoạn để có điều kiện gần gũi Thôi Oanh Oanh. Mặc dù là một thư sinh lẻo khẻo nhưng Trương Quân Thụy đã dám nhận cứu hai mẹ con Thôi Oanh Oanh. Ðộng lực khiến cho chàng nhận lời cứu hai mẹ con Thôi Oanh Oanh cũng không phải vì nghĩa mà vì muốn chiếm được Thôi Oanh Oanh. Khi câu chuyện vỡ lỡ Thôi phu nhân bắt Trương Quân Thụy về kinh dự thi, chàng đã khăn gói lóc cóc lên đường. Việc làm này của Trương Quân Thụy cũng không phải là để thể hiện chí nam nhi muốn kinh bang tế thế mà chẳng qua là để chiếm bằng được tình cảm của Thôi Oanh Oanh.

Nhân vật Trương Quân Thụy trong Tây sương kí của Vương Thực Phủ khác với nhân vật trong Hội chân kí của Nguyên Chấn thời Ðường. Nếu như Trương Quân Thụy trong tác phẩm truyền kỳ của Nguyên Chấn cuối cùng đã phụ bạc tình yêu của Thôi Oanh Oanh thì nhân vật Trương Quân Thụy trong Tây sương ký của Vương Thực Phủ lại trọn vẹn chung tình với Thôi Oanh Oanh.

* Nhân vật Thôi Oanh Oanh: Thôi Oanh Oanh vốn là một cô gái quyền quý. Trong mối quan hệ với Trương Quân Thụy, nàng rất yêu Trương Quân Thụy. Nhưng nhân vật này trong kịch bản tạp kịch hoàn toàn rơi vào thế bị động. Trước những khó khăn trắc trở, nhân vật Thôi Oanh Oanh chỉ biết than khóc. Nếu không có sự giúp đỡ của nhân vật cô Hồng thì Thôi Oanh Oanh không thể nào cùng với Trương Quân Thụy tới bến bờ của hạnh phúc đôi lứa. Nhân vật Thôi Oanh Oanh là một thành tựu nghệ thuật trong việc xây dựng nhân vật của Vương Thực Phủ. Nhân vật này thực sự có chiều sâu nội tâm. Vương Thực Phủ không khắc họa tâm lý nhân vật Thôi Oanh Oanh bằng một đường thẳng đơn điệu mà tâm lí nhân vật này thực sự có uẩn khúc, quanh co. Khi đọc lá thư của Trương Quân Thụy do cô Hồng mang về: đáng lẻ ra Thôi Oanh Oanh thấy được lời như cởi tấm lòng và phải biết ơn người chuyển thư là cô Hồng. Nhưng ngược lại Thôi Oanh Oanh đã nghiêm sắc mặt trách mắng cô Hồng và bảo cô Hồng từ nay về sau không được mang những lá thư như thế về nữa. Biểu hiện này khiến cho cô Hồng khó hiểu đối với Thôi Oanh Oanh. Thôi Oanh Oanh gửi thư cho Trương Quân Thụy hẹn chàng đếm ấy sẽ sang và Trương Quân Thụy đã vượt tường sang. Nhưng khi thấy Trương Quân Thụy xuất hiện giữa phòng mình bên cạnh cô Hồng thì Thôi Oanh Oanh lại nghiêm sắc mặt trách mắng Trương Quân Thụy khiến cho chàng Trương tiến thoái lưỡng nan. Khi cô Hồng bảo với Thôi Oanh Oanh là cô sẽ đi báo cho bà lớn biết thì Thôi Oanh Oanh đã ngăn cô Hồng lại. Ðây là những biểu hiện tâm lí khá đa dạng của nhân vật Thôi Oanh Oanh mà Vương Thực Phủ đã khắc họa. Tình yêu của Thôi Oanh Oanh chỉ là tình yêu vị kỉ.

* Nhân vật cô Hồng: nhân vật cô Hồng không phải là nhân vật trung tâm của kịch bản, nhưng lại mang lí tưởng thẩm mỹ của Vương Thực Phủ. Nhân vật này vốn là thị tỳ - đầy tớ gái của Thôi Oanh Oanh. Vương Thực Phủ đã tập trung nhiều vẻ đẹp của phẩm chất nhân dân cho nhân vật này. Nhân vật cô Hồng trong kịch bản là người chứng kiến là một vị cố vấn, là người dẫn lối đưa đường cho tình yêu của đôi lứa Thôi-Trương. Mặc dù đây là tình yêu của đôi lứa Thôi-Trương mà cô Hồng chỉ là người đầy tớ gái, nhưng chính cô Hồng đã trở thành chỗ dựa, điểm tựa tinh thần khá vững chắc cho tình yêu đôi lứa Thôi -Trương. Nhân vật cô Hồng đã tạo điều kiện để giúp cho Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy thành đôi, thành lứa. Nhân vật cô Hồng là người đã bày cho Trương Quân Thụy ngâm thơ đánh đàn để tỏ tình với Thôi Oanh Oanh. Những lần Thôi Oanh Oanh gặp trắc trở, cô Hồng lại đến để an ủi, động viên Thôi Oanh Oanh tin tưởng ở tình yêu. Trong quá trình giúp đỡ cho đôi lứa Thôi-Trương, cô Hồng cũng gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Những khó khăn này trước hết là do Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy gây ra. Mặc dù được cô Hồng tận tình giúp đỡ, nhưng Thôi Oanh Oanh đã nhiều lần hù dọa cô Hồng rằng nàng sẽ mách với bà lớn đánh cô Hồng mất mông.Trương Quân Thụy lại không thể hiểu được tình cảm cao đẹp của cô Hồng nên có lần chàng đã ngỏ ý trả công cho cô Hồng bằng vàng bạc. Với tấm lòng vị tha cao cả, cô Hồng đã vượt lên trên mọi khó khăn trắc trở để giúp đỡ cho đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật cô Hồng không ngần ngại, không từ nan bất kì một việc gì miễn là công việc ấy thiết thực giúp đỡ cho Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy. Mặc cho Thôi Oanh Oanh trách mắng hay hù dọa, nhân vật cô Hồng đã bỏ qua tất cả để giúp đỡ cho họ mà không hề để bụng, không hề tự ái. Nhân vật này có lòng vị tha rất lớn, không những thế nhân vật này còn là một phụ nữ thông minh: khi thấy sự thay đổi thái độ của Thôi Oanh Oanh đối với Trương Quân Thụy đặc biệt là lúc Thôi Oanh Oanh trách mắng Trương Quân Thụy vì chàng đã vượt tường sang theo lời hẹn của Thôi Oanh Oanh thì nhân vật cô Hồng đã báo cho Thôi Oanh Oanh là cô đi mách với bà lớn. Nhân vật cô Hồng nói với Thôi Oanh Oanh như vậy là để thử phản ứng tâm lí của nhân vật Thôi Oanh Oanh. Bằng việc này, cô Hồng đã nhận ra chân tướng Thôi Oanh Oanh. Sau thời gian Thôi Oanh Oanh bí mật đi lại với Trương Quân Thụy, câu chuyện bị vỡ lỡ. Nhân vật Thôi phu nhân đã cho gọi cô Hồng tới và chửi mắng cô. Ban đầu cô Hồng im lặng, tiếp đến cô Hồng từ tốn kể rõ ngọn ngành về mối tình của đôi lứa Thôi-Trương, rồi cô lên giọng tố cáo Thôi phu nhân đã ngăn trở tình yêu của hai người. Cô Hồng lại hạ giọng khuyên bà lớn hãy vì việc lớn mà bỏ việc nhỏ để tác thành cho đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật cô Hồng đã chuyển từ thể bị động sang thể chủ động, từ vị trí của một bị cáo sang vị trí của một quan tòa. Ðiều này chứng tỏ nhân vật cô Hồng rất thông minh. Nhân vật cô Hồng với Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh đều luôn hành động theo tiếng gọi của trái tim, nhưng trái tim của Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh là trái tim vị kỉ chỉ biết tình yêu của hai người, còn trái tim của cô Hồng là trái tim vị tha cao cả.

b. Một trở lực:

Nhân vật Thôi phu nhân: là một phụ nữ quyền quý, nhân vật này là mẹ của nhân vật Thôi Oanh Oanh. Là một người mẹ nhưng Thôi phu nhân không hành động theo tiếng gọi của trái tim người mẹ, mà bà nhất nhất làm theo lễ giáo phong kiến. Nhân vật này xuất hiện trong kịch bản tạp kịch không nhiều nhưng nhân vật này là một bóng đen là hiện thân của lễ giáo phong kiến, hiện thân của trở lực ngăn cản tình yêu của đôi lứa Thôi-Trương. Nhân vật Thôi phu nhân chỉ biết sống với lễ giáo phong kiến nên bà cũng trở thành một kẻ lật lọng, tráo trở, nuốt lời. Nhân vật Thôi phu nhânhoàn toàn tương phản với ba nhân vật trên. Nếu như Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy chỉ biết sống với tình yêu vị kỷ, nhân vật cô Hồng luôn sống với tình yêu vị tha thì nhân vậtThôi phu nhân chỉ biết sống với lễ giáo phong kiến.

Thành công lớn nhất của Vương Thực Phủ trong việc xây dựng nhân vật là đã khắc họa được chiều sâu tâm ly nhân vật trong thế tương phản. Tuy các nhân vật chưa đạt đến mức có phép biện chứng tâm hồn và chưa có tính cách điển hình nhưng các nhân vật này cũng đã có được những nét cá tính xác lập.
 

cohonnhien

Thành viên
#9
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p9)

VĂN CHƯƠNG THỜI MINH - THANH

--------------------------------------------------------------------------------

Giai đoạn văn chương này trải dài trên hai triều đại. Ðó là triều đại nhà Ngô - nước Minh (Hán tộc) và triều đại nhà Thanh (Ngoại tộc). Tuy là hai triều đại khác nhau, nhưng bản chất của chúng lại có nhiều nét giống nhau.

Giai đoạn văn chương này bắt đầu tính từ 1368 đến1840 là năm nổ ra cuộc chiến tranh Nha phiến ở Trung Quốc và cũng là năm mà yếu tố tư bản chủ nghĩa đã xâm nhập sâu vào xã hội Trung Quốc.

Ðây là giai đoạn mà yếu tố tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh nhất chưa từng có trước đó trong lịch sử Trung Quốc.

*Về văn chương:

_ Ðây là giai đoạn phát triển cuối cùng của văn chương cổ điển Trung Quốc, có nhiều yếu tố mới nảy nở, tạo điều kiện cho văn chương thời cận-hiện đại sau này phát triển.

_ Giai đoạn văn chương thời Minh-Thanh có sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết cổ điển.

I. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI


Sau thời gian ngót 100 năm liên tục đấu tranh, nhân dân Trung Quốc đã dành được độc lập bằng thắng lợi của cuộc khởi nghĩa do Chu Nguyên Chương lãnh đạo vào năm 1368. Chu Nguyên Chương đã thiết lập triều đại nhà Ngô và đặt tên nước là nước Minh, tồn tại từ năm 1368 đến năm 1644. Ðây là triều đại đế vương chuyên chế cuối cùng của người Hán. Trong lịch sử Trung Quốc, Chu Nguyên Chương là vị anh hùng thứ hai xuất thân từ nông dân sau Lưu Bang (Hán Cao Tổ). Vì vậy buổi đầu của triều Ngô nước Minh, Chu Nguyên Chương đã ban bố một số sách tiến bộ, kích thích sự phát triển sản xuất nông nghiệp.

Lúc này nhân dân Trung Quốc muốn có một chính quyền trung ương mạnh để thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất. Nhưng triều đình nhà Ngô nước Minh lại nhanh chóng đi vào con đường chuyên chế cực đoan, nên nhiều phong trào khởi nghĩa của nông dân đã nổ ra và lật đổ triều đại nhà Ngô nước Minh vào năm 1644.

Giai cấp địa chủ nhà Minh đã đầu hàng và đón tiếp quân xâm lược Mãn Thanh. Người Mãn Thanh ở vùng Ðông Bắc Trung Quốc. Khi họ vào xâm lược Trung Quốc thì dân tộc họ còn nằm trong tình trạng lạc hậu. Từ đây trong xã hội Trung Quốc có hai mâu thuẫn :đó là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, nổi bật là mâu thuẫn dân tộc. Nhà Thanh khi vào xâm lược Trung Quốc đã giữ nguyên những thể chế cũ của nhà Minh. Vì vậy tính chất xã hội không có gì thay đổi lớn. Tuy là hai triều đại khác nhau nhưng về cơ bản tính chất của nó rất giống nhau.

1. Kinh tế:

a. Nông nghiệp: Nông nghiệp thời Minh có phần phát triển hơn so với

thời Nguyên, đặc biệt là ở buổi đầu của nó. Chu Nguyên Chương đã ban bố một số chủ trương tiến bộ như quân cấp ruộng đất và phát triển thủy lợi.

Tuy nhiên, đó chỉ là sự phát triển của nông nghiệp đầu đời Minh. Còn ở các thời điểm sau đó thì nông nghiệp Trung Quốc lại có phần sa sút. Sở dĩ có sự sa sút ấy là bởi yếu tố tư bản thương nghiệp xâm nhập sâu vào nông thôn, khiến cho nông dân Trung Quốc lâm vào tình trạng phá sản. Người nông dân phải bỏ ruộng đất để đi tha phương cầu thực. Mặt khác, ruộng đất của nông dân bị địa chủ người Hán chiếm đoạt. Vì vậy, một số nông dân bị biến thành nông nô hoặc công nô.

b. Công-Thương nghiệp: Công-thương nghiệp giai đạo này phát triển mạnh hơn nhiều so với thời Nguyên.Yếu tố tư bản chủ nghĩa không chỉ phát sinh trong lòng xã hội Trung Quốc mà còn từ các nước Tây Âu xâm nhập vào. Nhiều ngành thủ công nghiệp ở các đô thị lớn phát triển mạnh như vùng Ðại Ðô (Bắc Kinh). Vì vậy tầng lớp thị dân phát triển mạnh. Ở Trung Quốc thời này đã xuất hiện nhiều xưởng luyện sắt, làm thủy tinh, làm đồ sứ, nghề dệt tơ lụa, len dạ, gấm vóc, kỹ nghệ in ấn rất phát triển.

Thương nghiệp Trung Quốc thời này phát triển mạnh. Trung Quốc đã có một đội thương thuyền lớn, đi lại buôn bán với nhiều nước ở vùng Ðông Nam Châu Á và Châu Phi.Từ 1405 đến 1430, đội thương thuyền này đã đi lại buôn bán với các ở những khu vực nói trên đến bảy lần.

Thời này chủ nghĩa tư bản phương Tây phát triển mạnh rất cần thị trường nên họ đã bắt đầu dòm ngó Trung Quốc. Bồ Ðào Nha là nước đầu tiên đến Trung Quốc. Kế đó là Tây Ban Nha, Hà Lan , Anh.

2. Chính trị: Triều đại nhà Minh là triều đại Hán tộc. Ðây là thời kì Trung Quốc giành được độc lập. Buổi đầu của triều đại nhà Ngô, nước Minh rất phát triển. Nhưng sau đó, Chu Nguyên Chương đã đi vào con đường chuyên chế cực đoan, thâu tóm toàn bộ quyền lực vào tay mình. Chu nguyên Chương đã thực hiện chính sách thanh trừng những người không thuộc phe phái của ông, đồng thời chỉ tin dùng những người trong gia tộc. Vì vậy, mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt nhất là mâu thuẫn giai cấp. Cuối đời Ngô, bọn quan lại lao vào ăn chơi hưởng lạc, đẩy nhân dân vào tình trạng cùng cực, khốn đốn. Nhiều phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra ngay từ thời Minh Thành Tổ (1403-1424). Từ 1630-1644 đã nổ ra cuộc khởi nghĩa của Trương Hiến Trung và Lí Tự Thành, dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của triều đại nhà Ngô nước Minh.

Triều đại nhà Thanh là triều đại ngoại tộc. Người Mãn Thanh lúc này đang sống trong tình trạng lạc hậu. Nhà Thanh đã duy trì những thể chế cũ của nhà Minh và thực hiện những chính sách thống trị hà khắc. Thời nhà Thanh, xã hội Trung Quốc có hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, đặc biệt nổi lên là mâu thuẫn dân tộc. Nhà Thanh đề ra khẩu hiệu Mãn -Hán nhất thể (Mãn- Hán là một) để điều hòa mâu thuẫn dân tộc. Nhưng nhiều phong trào yêu nước đã nổ ra như phong trào Thiên địa hội, Thái Bình thiên quốc. Ðến năm 1911, cách mạng Tân Hợi bùng nổ đã lật đổ hoàn toàn triều đại nhà Thanh.

3. Văn hóa:

Nhà Minh cũng như nhà Thanh đều đề cao lí học (học thuyết về lí của Trình Hạo và Chu Hy). Ðây là học thuyết có khi là duy tâm chủ quan (lí là tâm) và có khi là duy tâm khách quan (lí là thiên). Lý học thời Tống là sự biến thái của nho giáo, nên còn được là Tống nho. Nhà Ngô nước Minh và nhà Thanh đề cao lí học để bảo vệ trật tự xã hội phong kiến của hai triều đại này.

Trong khi giai cấp thống trị cố đề cao lí học nhằm bảo vệ trật tự và quyền lợi của họ thì cũng có một số nhà tư tưởng chống lại. Những người có tư tưởng mới chống lại lí học đó là Vương Dương Minh, Vương Phu Chi, Hoàng Tông Hi, Cố Viêm Võ.

Cả hai triều đại đều đề cao lối văn bát cổ (8 vế): phá đề, thừa đề, khởi giảng, nhập thủ, tiền cổ, trung cổ, hậu cổ, thái cổ. Lối văn này sử dụng khá phổ biến trong các kì thi. Trong các kì thi, thí sinh chỉ được dựa vào tứ thư ngũ kinh không được mang chất liệu từ cuộc sống thực trong hiện tại vào bài làm.

Thời Minh - Thanh có đề ra chủ trương soạn sách. Từ đó đã tập hợp được những trí thức trong xã hội. Một số công trình văn hóa cũng đã được khởi thảo và hoàn thiện, đáng kể là những bộ từ điển như bộ Vĩnh Lạc đại điển gồm 22.877 do 2000 trí thức soạn nên. Bộ Tứ khố toàn thư gồm 79339 cuốn được xem là quyển từ điển bách khoa toàn thư và bộ Khang Hi tự điển.

Thời này thường xảy ra hiện tượng ngục văn tự,ï biểu hiện cụ thể của chính sách văn hóa hà khắc của hai triều đại. Nó nghiêm cấm những nhà thơ, nhà văn sáng tác trái ý của triều đình. Các nhà văn, nhà thơ sáng tác trái ý thì bị phạt rất nặng, có người còn bị chém đầu, những người lưu giữ những tác phẩm ấy đều bị liên lụy, những nhà văn, nhà thơ chết rồi thì mồ mả của họ cũng bị quật lên.
II. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN VĂN CHƯƠNG


1. Dòng văn chương chính thống:
Ở dòng này, có sự phát triển của thơ và cũng ở đây đã diễn ra những đụng độ giữa phái cũ và phái mới. Trong những người thuộc phái mới, phải kể đến Cố Viêm Võ và Khuất Ðại Quân. Thể truyền kì cũng phát triển. Truyền kì đời Ðường là tiểu thuyết, còn truyền kì thời này là kịch bản sân khấu. Thời kì này còn gọi truyền kì là hí khúc-một loại hình sân khấu có bước phát triển cao. Hí khúc thời Minh-Thanh bắt nguồn từ Nam hí (kí khúc phương Nam). Trong thể loại truyền kì có cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới và nó còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị:

_ Ðào Hoa Phiến (Quạt hoa đào) - Khổng Thượng Nhiệm.

_ Trường Sinh Ðiện (Ðiện Trường Sinh) của Hồng Thăng.

_ Mẫu Ðơn Ðình (Ðình Mẫu Ðơn) của Thang Hiển Tổ.

2. Dòng văn chương mang tư tưởng tiến bộ của nhân dân:

a. Văn chương dân gian phát triển mạnh, đặc biệt là thơ ca. Các nhà nghiên cứu văn chương của Trung Quốc cho rằng thơ ca dân gian thời này phát triển đến mức bồng bột nhất. Thơ ca dân gian thời này là những khúc hát sôi nổi của tình yêu, là tiếng thét căm thù đối với những bất công trong xã hội, là những bài ca ca ngợi anh hùng. Thơ ca dân gian đã chứa đựng được khát vọng vươn tới một chân trời mới chưa từng có mà không còn bị bó hẹp ở một khoảng trời, một làng quê nào đó.

Thời kì này có sự phát triển rực rỡ của tiểu thuyết cổ điển. Tiểu thuyết phát triển đến mức thành thục. Cho tới giai đoạn này, tiểu thuyết Trung Quốc đã có lịch sử trên 1000 năm phát triển. Thời Tấn (thế kỉ III-IV) Trung Quốc đã xuất hiện loại tiểu thuyết chí quái, đến thời Nam Bắc Triều xuất hiện loại tiểu thuyết dật sử. Tiểu thuyết thời Minh bắt nguồn từ thoại bản thời Tống. Trong giai đoạn này đã ra đời nhiều loại bộ tiểu thuyết có giá trị:

_ Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa của La Quán Trung.

_ Thủy Hử của Thi Nại Am.

_ Tây Du Kí của Ngô Thừa Ân.

_ Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần và Cao Ngạc.

_ Truyện Làng Nho (Nho lâm ngoại sự)- Ngô Kính Tử.

_ Kim-Bình-Mai (Tiếu Tiếu Sinh).

_ Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh.

b. Nguyên nhân phát triển của tiểu thuyết:

Do kinh tế đô thị phát triển, tầng lớp thị dân tăng lên, họ có nhu cầu, sự thay đổi về thị hiếu thẩm mỹ. Văn chương ra đời nhằm đáp ứng cho cái đẹp của laòi người. Vì thời tiết không thuận lợi, cần có tiểu thuyết đọc ở nhà.

Kĩ nghệ in ấn phát triển nên tạo điều kiện để xuất bản rộng rãi.

* Nếu như ở thời Nguyên Mông văn nghệ sĩ bị khinh rẻ thì thời này được coi trọng hơn.

Thời này yếu tố tư bản phát triển mạnh, nên người Trung Quốc mở rộng tầm nhìn. Nhiều nhà văn có khả năng khái quát rộng lớn trong việc xây dựng những bộ tiểu thuyết trường thiên.

Ðây là giai đoạn đầy biến động của lịch sử Trung Quốc. Những truyện ngắn, những vở tạp kịch không có khả năng để thâu tóm, khái quát được hiện trạng xã hội, nên tiểu thuyết Trường thiên đã phát triển để đáp ứng nhu cầu khái quát thực tại xã hội.

Tiểu thuyết thời này phát triển để trở thành diễn đàn tiếng nói đòi tự do của nhân dân Trung Hoa

c. Nội dung:

Ðề tài: rất phong phú, đề cập đến nhiều mặt của cuộc sống. Tiểu thuyết thời này thực sự đi vào đời sống tinh thần của người dân Trung Quốc (người biết chữ thì đọc; người không biết chữ thì nghe kể. Người kể là Thuyết thoại nhân). Tiểu thuyết thời này góp phần làm mạnh hóa xã hội, xua đi ám khí của lí học.

Hình tượng nhân vật: một số nhân vật tiểu thuyết giai đoạn này đã đạt tính cách điển hình.

* Tính cách điển hình: theo Ăng-ghen: Mỗi nhân vật là một điển hình. Nhưng đồng thời cũng là một cá tính hoàn toàn đích xác, là con người này như ông già Hêghen nói. Khi bàn về tính cách điển hình, Biêlinxki lại cho rằng: Mỗi nhân vật của nhà văn thực sự có tài năng là một kiểu người. Và đối với người đọc, mỗi kiểu người là một người lạ đã quen biết
 

cohonnhien

Thành viên
#10
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p10)

KHÁI QUÁT VĂN CHƯƠNG HIỆN ĐẠI TRUNG QUỐC (TỪ 1919 ĐẾN NAY)

Văn chương hiện đại Trung Quốc bao gồm các tác giả và tác phẩm ra đời sau năm 1919 là năm nổ ra phong trào ngũ tứ (4-5-1919). Từ 1919 đến nay, lịch sử Trung Quốc có nhiều biến động. Ðảng cộng sản Trung Quốc ra đời 11-7-1921.

I. GIAI ÐOẠN TỪ 1919-1949
Ðây là một quá trình dân tộc dân chủ ở Trung Quốc. Năm 1930 Tả dực tác gia liên minh (Liên minh các nhà văn cánh tả) ra đời, gọi tắt là Tả Liên. Tổ chức này do Lỗ Tấn và Cù Thu bạch sáng lập và lãnh đạo. Tổ chức này đã rộng rãi các nhà văn Trung Quốc trong hoạt động chống Nhật. Ở giai đoạn này xuất hiện nhiều nhà thơ, tiêu biểu:

* Về văn:
_ Lỗ Tấn: có thể xem Lỗ Tấn là người khai sáng nền văn chương hiện đại Trung Quốc.

_ Mao Thuẫn (Thẩm Nhạn Băng): là tác giả của tiểu thuyết Nửa đêm nằm trong số 108 danh tác của Trung Quốc.

_ Diệp Thanh Ðào: tác phẩm tiêu biểu là ông giáo Chi.

_ Lão Xá: tác giả của cuốn tiểu thuyết Tướng Lạc Ðà.

_ Ba Kim: với tác phẩm Gia đình.

_ Diệp Từ: Ðược mùa.

* Về thơ:

_ Quách Mạc Nhược: tập Nữ thần.

* Về kịch:

_ Tào Ngu: với vở kịch Lôi vũ và Nhật xuất.

Vào giai đoạn giữa và cuối còn có những nhà văn xuất sắc như:

_ Nữ văn sĩ Ðinh Linh với tác phẩm: Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn.

_ Lưu Bạch Vũ với Ánh lửa .

II. GIAI ÐOẠN 1949-1966

Ðây là thời kì Trung Quốc tiến hành xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Giai đoạn này văn chương phát triển rất mạnh, đặc biệt là tiểu thuyết. Tiểu thuyết Trung Quốc ở giai đoàn này viết về nhiều đề tài , tạo nên sự phong phú đa dạng cho nền văn chương hiện đại Trung Quốc.

* Ðề tài công nhân: tiểu thuyết Luyện mãi thành thép- Ngãi Vu.

* Ðề tài nông dân:

_ Khai gió thú và Tam lí loan- Triệu Thụ Lí.

_ Mưa to gió lớn và Bản làng đổi mới- Chu Lập Ba.

_ Buổi sáng trên sông đà- Dương Tường.

* Ðề tài chiến tranh:

_ Tác phẩm Thương Cam Lĩnh của Lục Trụ Quốc.

* Ðề tài trí thức:

_ Bài ca tuổi trẻ - nữ văn sĩ Dương Mạt.

* Ðề tài về truyền thống đấu tranh cách mạng:

_ Rừng thẳm tuyết dày- Thúc Ba.

_ Bảo vệ Diên An- Ðỗ Bằng Trình.

_ Mặt trời đỏ - Ngô Cường.

_ Dưới ngọn cờ hồng- Lương Bân.

* Ðề tài cải tạo hòa bình tư bản tư doanh:

_ Thượng Hải ban mai- Chu Nhi Phục.

* Ðề tài về dân tộc ít người:

_ Ngọn lửa trên thảo nguyên- Mông-Ulan-Badan. Ở giai đoạn này thơ cũng phát triển, nổi lên là vai trò của Hạ Kính Chi. Về kịch thì có kịch của Lão Xá với Hoa mùa xuân quả mùa thu và Mở cống Long Tu.

Ở giai đoạn này, bên cạnh các nhà thơ thuộc lớp trước như Quách Mạt Nhược, Ngãi Thanh, Hồ Phong, Tam Khắc Gia, Phùng Chí, Hà Kì Phương và Ðiền Hán, còn xuất hiện những nhà thơ trẻ đầy tài năng như Quách Tiểu Xuyên, Hạ Kính Chi, Lí Quý, Văn Tiệp, Lí Anh Trương Chí Dân, Công Lưu, Nhạn Dực, Lương THượng Tuyền.

Về văn xuôi có các tên tuổi: Mã Phong, Lý Chuẩn, Tuấn Thanh, Vương Mông, Nhữ Chí Quyên, Lưu Bạch Vũ, Tần Mục, Tào Tĩnh Hoa, Ngô Bá Tiêu

Năm 1957, Trung Quốc phát động chống nhóm Ðinh Linh-Trần Xí Hà.

III. GIAI ÐOẠN TỪ 1966-1976


Ðây là giai đoạn Trung Quốc tiến hành cuộc cách mạng Ðại Văn hóa Vô Sản. Trung Quốc lâm vào tình trạng tiêu điều.

IV. GIAI ÐOẠN TỪ 1976 ÐẾN NAY


Hội nhà văn Trung Quốc hiện nay có tới hơn 6000 hội viên. Nếu tính số hội viên của các hội nhà văn địa phương thì có tới hơn 25000 hội viên.

Giai đoạn văn chương Trung Quốc có sự phát triển đáng kể, có hai khuynh hướng: khuynh hướng vết thương và biểu hiện.

_ Khuynh hướng vết thương: là khuynh hướng gợi lại nhnữg tổn thất mất mát trong cuộc cách mạng đại văn hóa Vô sản.

Mối tình cay đắng- Bạch Hoa.

_ Biểu hiện: thái độ của nhà văn bộc lộ đối với xã hội Trung Quốc. Con người đến tuổi trung niên Thẩm Dung.

Trong giai đoạn này, đã xuất hiện một số nhà văn nổi tiếng như Giả Bình Ao, Lưu Tâm Vũ, Trương Hiền Lượng.

LỖ TẤN(1881-1936)


Lỗ Tấn là người đặt nền móng cho văn chương hiện đại Trung Quốc. Nói cách khác ông là người khai sáng cho nền văn chương này. Lỗ Tấn sáng tác 16 tập tạp văn, một số công trình chuyên khảo và ba tập truyện ngắn: gào thét, Bàng hoàng và Chuyện cũ viết lại gồm 33 truyện ngắn .

Về truyện ngắn, tuy Lỗ Tấn sáng tác không nhiều, nhưng nhiều truyện đã đạt được những thành tựu nghệ thuật cao. Ông được giới nghiên cứu văn chương xem là bậc thầy của thể loại truyện ngắn. Lỗ Tấn đã đóng góp cho nhân loại một tác phẩm bất hủ là AQ chính truyện.

Lỗ Tấn tên thật là Chu Thụ Nhân, tên thật là Dự Tài. Lỗ Tấn là bút danh. Ông sinh ngày 25-9-1881 tại huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang. Giai đoạn của Lỗ Tấn vốn là giai đoạn quan lại đã sa sút. Ông nội của Lỗ Tấn là Chu Giới Phu làm quan cho triều đình Mãn Thanh. Năm Lỗ Tấn lên 13 tuổi, ông nội của nhà văn bị tống ngục bởi vụ án khoa trường. Từ ấy gia đình ông trở nên sa sút. Cha của Lỗ Tấn là Chu Bá Nghi đỗ tú tài nhưng không được ra làm quan. Ông bị bệnh phù nên mất sớm. Mệ của tác giả là Lỗ Thụy-người phụ nữ nông thôn, tốt bụng, cần cù, đã kể cho tác giả nghe nhiều truyện cổ. Bà đã sớm có ảnh hưởng đến tài năng của Lỗ Tấn. Lỗ Tấn là bút danh lấy từ họ mẹ.

Lỗ Tấn sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh Trung quốc là triều đình Mãn Thanh đầu hàng đế quốc.

Cuộc đời và sự nghiệp của Lỗ Tấn có thể chia làm 3 giai đoạn:

_Giai đoạn 1:từ 1881-1918

_Giai đoạn 2:từ 1918-1927

_Giai đoạn 3:từ 1927-1936

1. Giai đoạn từ 1881-1918:

Ðây là giai đoạn nhà yêu nước Lỗ Tấn . Lên 6 tuổi Lỗ Tấn học ở trường làng. Ông tỏ ra rất thông minnh. Tuy còn nhỏ tuổi ông đã đọc hầu hết các thư tịch cổ. Ông ham mê văn chương dân gian, sân khấu và hội họa. Năm 18 tuổi Lỗ Tấn đến Nam Kinh. Ðầu tiên Lỗ Tấn vào học ở trường thụy sư học đường (trường đào tạo nhân viên hàng hải). Hai năm sau ông thi vào trường Khoáng lộ học đường (đòa tạo kỹ sư mỏ địa chất). Cả hai trường này là trường Tây học mà không còn trường Hán học. Nhiều kiến thức khoa học kỹ thuật của phương Tây, hồi này ông đọc rất nhiều. Những sách mà ông đọc là những công trình khoa học kỹ thuật hay khoa học tự nhiên. Cung trong thơig gian này ông được đọc tác phẩm thiên diễn luận của Hóc-xlây. Hóc-xlây đã trình bày học thuyết tuiến hóa của Darwin trong công trình của mình. Lỗ Tấn đã đọc cuốn sách này một cách say mê. Nên ông đã sớm chịu ảnh hưởng của học thuyết tiến hóa. Tuy tiến hóa luận trong nhận thức của Lỗ Tấn óc phần động hơn chứ không phải tĩnh như trong nguyên lí của nó, nhưng cách lí giải của Lỗ Tấn chưa có cơ sở sát thực đối với lịch sử xã hội. Lỗ Tấn đã cho rằng sinh mình của thế hệ trẻ hơn sinh mình của thế hệ già, ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay. Lúc này, Lỗ Tấn chưa nhận thức được rằngtiến hóa luận chỉ có thể giải thích được qui luật tiến hóa mang tính tự nhiên của sinh vật. Ðó là qui luật tự nhiên nên không thể dùng qui luật tự nhiên để lí giải qui luật xã hội. Sự tiến hóa sinh vật là sự tiến hóa tự nhiên. Còn sự tiến hóa của lịch sử xã hội là phải có động lực thúc đẩy. Thuyết tiến hóa cũng đã ảnh hưởng đến 1 số tác phẩm của Lỗ Tấn trong thời kì đầu như Nhật kí người điên và Cố hương. Cuối truyện ngắn Nhật kí người điên tác giả đã cho người điên kêu to hãy cứu lấy các em.

Năm 1902, Lỗ Tấn sang du học ở Nhật. Hồi này trên đất Nhật có nhiều tổ chức của người Trung Quốc yêu nước ra đời như tổ chức Quang Phục hội, Lỗ Tấn đã chính thức gia nhập tổ chức này. Lỗ Tấn đã bộc lỗ cái nhiệt huyết yêu nước của mình bằng hoạt động và bằng cả tiếng lòng tha thiết. Ông đã từng viết Ngã dĩ ngã huyết tiến Hiên Viên (Hiên Viên :thần tổ của người Trung Quốc, tượng trưng cho Trung Quốc-Trung Hoa) Ta nguyền lấy máu ta để hiến dâng cho Tổ quốc. Sau hai năm học tiếng Nhật ở Hoàng văn học hiệu, năm 1904 Lỗ Tấn chính thức vào học ở trường thuốc Tiên Ðài. Sở dĩ Lỗ Tấn xin vào học ở trường thuốc Tiên Ðài là bởi động cơ của tấm long yêu nước. Nước Nhật thời này là tấm gương trong việc dung ngành y để chấn hưng và phát triển nền kinh tế và văn hóa xã hội. Vì vậy Lỗ Tấn đã vào học ở trường thuốc để mong thực hiện được ước mơ của mình là dùng nghề thuốc để cải tạo xã hội Trung Quốc. Mặt khác Lỗ Tấn muốn học thuốc để cứu những người dân lành bị bệnh như cha của ông.

Năm 1906, một hôm Lỗ Tấn xem bộ phim tài liệu về cuộc đấu tranh Nga-Nhật, trong bộ phim có cảnh một người Trung Quốc làm mật thám cho Nga bị quân đội Nhật xử tử trước đám đong quần chúng Trung Quốc. Tước cảnh người đông chủng của mình bị xử tử, công chúng người Trung Quốc đã tỏ ra vui mừng hoan hỉ, hình ảnh này đã kích mạnh đối với Lỗ Tấn. Ông cho rằng nghề thuốc chỉ có thể chữa được bệnh về thể xác chứ không chữa được bệnh về tinh thần, mà chữa bệnh về thể xác lại không quan trọng bằng chữa bệnh về tinh thần. Nên ông đã quyết định nghỉ học ở trường thuốc và chuyển sang hoạt động văn nghệ. Trong thời gian này ông đọc rất nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài đặc biệt là các nhà văn lớn ở Châu Âu.Ông đã dịch một số tác phẩm của nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng là Jules Vernes.

Năm 1907,Lỗ Tấn viết bài Sức mạnh của dòng thơ ma-ra (ma-ra trong tiếng Phạn là ma quỷ). Trong bài viết này,Lỗ Tấn là người đầu tiên giới thiệu những nhà thơ nổi tiếng Trung Quốc với độc giả Trung Quốc; đó là những nhà thơ Buyron và Chanhdly: hai nhà thơ lãng mạn lớn của nước Anh; hai nhà thơ vĩ đại của Nga là Puskin và Lac-mông-tốp; Adam Mic-ki-ê-vích (Ba Lan); săng-đo-Pêtơphi (Hunggara).

Năm 1909, vì hoàn cảnh gia đình Lỗ Tấn phải trở về Trung Quốc để nuôi mẹ và chăm sóc em. Về nước Lỗ Tấn dạy ở trường trung học Thiệu Hưng và có dạo làm hiệu trưởng trường sư phạm Thiệu Hưng. Khi cách mạng Tân Hợi nổ ra, Lỗ Tấn hân hoan chào đón. Những cuộc cách mạng này đã không đạt được điều Lỗ Tấn mong muốn. Ông nhận thấy ngoài quốc hiệu Trung Hoa Dân quốc thì cuộc cách mạng này không đem đến sự đổi thay nào cho nhân dân cả. Vì vậy ông đã phải sống những năm tháng trầm tư.

Năm 1918, ông cho ra mắt bạn đọc một truyện ngắn đầu tay của mình là Nhật kí người điên lần đầu tiên được in trên tờ Thanh niên mới số tháng 5-1918. Các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất cho rằng truyện ngắn này là phát súng bắn vào dinh lũy chế độ phong kiến.

2. Giai đoạn 1918-1927:

Ðây là giai đoạn Lỗ Tấn đi từ tiến hóa luận đến giai cấp luận. Nó đánh dấu bước phát triển trong nhận thức tư tưởng và sự sáng tạo của Lỗ Tấn.

Ngày 4-5-1919 đã nổ ra phong trào Ngũ tứ. Ðây là phong trào đấu tranh chịu ảnh hưởng trực tiếp của cuộc cách mạng tháng 10 Nga. Nó cũng là dấu son chói lọi, là cột mốc đầu tiên của thời kì hiện đại trong lịch sử Trung Quốc. Lỗ Tấn cũng đã chịu ảnh hưởng của phong trào đấu tranh này. Trogn giai đoạn này Lỗ Tấn vừa giảng dạy vừa sáng tác.

Từ 1920-1925, Lỗ Tấn làm gia sư của các trường đại học Bắc Kinh, Cao Ðẳng Sư Phạm Bắc Kinh và đại học nữ Sư Phạm Bắc Kinh. Hồi này Lỗ Tấn đã tổ chức các nhóm nghiên cứu văn học trong sinh viên. Trong phong trào đấu tranh của sinh viên, Lỗ Tấn đã trở thành chỗ dựa tinh thần cho họ. Trong phong trào đấu tranh của sinh viên đại học nữ sư phạm Bắc Kinh vào 1925 chống tên tổng trưởng giáo dục Trương Sĩ Chiêu và chính phủ Ðoàn Kì Thụy, Lỗ Tấn đã đứng lên bảo vệ họ. Ông có nguy cơ bị khủng bố nên năm 1926 ông xuống Hạ Môn của tỉnh Phúc Kiến và làm gia sư của trường đại học Hạ Môn. Ðầu năm 1927, Lỗ Tấn đến Quảng Châu. Lúc này Quảng Châu đang sục sôi không khí cách mạng. Lỗ Tấn đến Quảng Châu làm trưởng phòng giáo vụ kiêm chủ nhiệm khoa văn của trường đại học Trung Sơn. Lỗ Tấn có điều kiện gần gũi với nhiều đảng viên cộng sản. Nhà văn đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ. Tháng 4-1927 Tưởng Giới Thạch đã gây ra vụ phản biến. Tận mắt Lỗ Tấnaã chứng kiến cảnh tàn sát rất dã man. Ðặc biệt ông nhận thấy lực lượng cảnh sát của Tưởng đã giết hại hàng loạt thanh niên yêu nước. Từ đây, Lỗ Tấn đã bắt đầu có sự thay đổi trong cách nhìn. Ông không còn cho rằng: sinh mình của thế hệ trẻ hơn sinh mình của thế hệ già.

Tháng 10-1927 Lỗ Tấn đã rời Quảng Châu về Thượng hải và ông ở đây mãi đến lúc mất (1936).

Trong giai đoạn này, Lỗ Tấn viết nhiều truyện ngắn và tạp văn về truyện ngắn có hai tập: Gào thét (14 truyện), Bàng hoàng (11 truyện). Một tập thơ bằng văn xuôi Dả thảo (Cỏ dại) và bảy tập tạp văn.

3. Giai đoạn từ 1928-1936:

Trong giai đoạn này Lỗ Tấn tập trung dịch và giới thiệu nhiều công trình văn nghệ lí luận Macxít. Nhà văn còn lo tổ chức và xây dựng đội ngũ các nhà văn Trung Quốc.

Năm 1928 ông cho xuất bản tạp chí Bônlưu (Dòng nước xiết). Tháng 5-1930, tổ chức Tả dực tác gia liên minh gọi tắt là tả liên ra đời. Tổ chức này do ông sáng lập và trực tiếp lãnh đạo cùng với Cù Thu Bạch. Tổ chức tả Liên đã điều khiển rộng rãi các nhà văn yêu nước. Trong giai đoạn Lỗ Tấn đã tập trung tâm linh và trí tuệ chống lại những quan điểm phản động để giữ vững trận địa văn nghệ cách mạng. Giai đoạn này ông viết tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại (8 truyện) và 9 tập tạp văn. Tập truyện ngắn Chuyện cũ viết lại gồm những truyện mang tính huyền thoại, đánh dấu bước phát triển trong văn nghiệp Lỗ Tấn. Nhà văn đi từ chủ nghĩa hiện thực phê phán đến chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Do làm việc quá sức nên ngày 19-10-1936 Lỗ Tấn đã mất tại Thượng Hải. Cái chết của nhà văn là tổn thất lớn của nền văn học hiện đại Trung Quốc. Ở những vùng Tưởng Giới Thạch kiểm soát bất chấp cảnh sát ngăn chặn, nhân dân đã tiến hành lễ truy điệu nhà văn rất trọng thể. Lỗ Tấn được xem là của Trung Quốc. Lỗ Tấn là một nhà văn lớn của Trung Quốc. Ông đã có những cống hiến xuất sắc cho nền văn chương hiện đại Trung Quốc. Cuộc đời và văn nghiệp của ông gắn liền với từng bước phát triển của nhận thức và sáng tạo. Ông đã đi từ một con người yêu nước đến nhà văn cộng sản. Sự phát triển này như là một tất yếu của thiên tài Lỗ Tấn. Trong thư xin gia nhập đảng cộng sản Mỹ của nhà văn lớn Thê-ô-đo Draiđơ, nhà văn này đã viết: Lôgic của cuộc sống đưa người ta đến chủ nghĩa cộng sản. Cuộc đời của Lỗ Tấn chỉ có thể được lí giải bằng ý kiến này. Chính lôgic của cuộc sống đã đưa Lỗ Tấn đến với Chủ nghĩa cộng sản, đến với con đường sáng tạo chân chính để phục vụ nhân dân.
 

cohonnhien

Thành viên
#11
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p11)

NHẬT KÝ NGƯỜI ÐIÊN


Nhật ký người điên là truyện ngắn đầu tay của Lỗ Tấn, lần đầu tiên được in trên tạp chí Tân thanh niên số thánh 5/1918. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm này đã gây được tiếng vang lớn trong dư luận của giới nghiên cứu văn học và độc giả cả nước. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Nhật ký người điên là phát súng đầu tiên bắn vào dinh lũy của chế độ phong kiến. Ðề tài của Nhật ký người điên là lễ giáo phong kiến. Vấn đề nổi bật trong Nhật ký người điên là lễ giáo phong kiến ăn thịt người. Tư tưởng của chủ đề trong tác phẩm là tố cáo sự tàn ác, dã man của lễ giáo phong kiến đối với con người.

Tác giả đã mượn hình thức nhật ký để dựng chuyện. Lỗ Tấn đã kế thừa phương thức dựng chuyện của nhà văn Nga N.V. Gôgôn. Gôgôn cũng có một truyện ngắn mang tên là Nhật ký người điên. Mặc dù, có cùng một tên truyện, nhưng tác phẩm của Lỗ Tấn khác với tác phẩm của Gôgôn. Sự khác biệt này được thể hiện ở tinh thần sáng tạo của nhà văn Lỗ Tấn. Về hình thức, Nhật ký người điên của Gôgôn có ngày tháng như ngày 3/10, ngày 4/10, ngày 6/11, ngày 8/11, ngày 9/11, ngày 86, tháng 30 năm 2000 ngày 43 tháng 4, ngày 34 tháng 2 năm 349, còn Nhật ký người điên của Lỗ Tấn thì hoàn toàn không có ngày tháng. Do không có ngày tháng, nên Nhật ký người điên của Lỗ Tấn có ý nghĩa khái quát rất cao. Ðiều này cũng rất phù hợp và thống nhất với một đoạn văn tập trung khắc họa chủ đề trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn: Cổ lai, việc ăn thịt người thường lắm, mình cũng còn nhớ nhưng không được thật rõ. Liền dỡ lịch sử ra tra cưú thử . Lịch sử không đề niên đại, có điều ở trang nào cũng có mấy chữ NHÂN, NGHĨA, ÐẠO ÐỨC... viết lung tung tý mẹt. Trằn trọc không sao ngủ được, đành cầm đọc thật kỹ, mãi đến khuya mới thấy, từ đầu chí cuối, ở giữa các hàng, ba chữ : ĂN THỊT NGƯỜI.

Ở đoạn văn trên, tác giả đã tạo dựng yếu tố thời gian nghệ thuật kết hợp với lối chiếu ứng để phơi bày chân tướng, lột trần bản chất vô cùng tàn ác của lễ giáo phong kiến.Cổ lai là xưa nay, gắn với yếu tố lịch sự không đề niên đại đã diễn tả được một cách rất thâm thúy rằng nạn ăn thịt người của lễ giáo phong kiến đã diễn ra triền miên trên trường kỳ lịch sử của chế độ phong kiến ở Trung Quốc. Ba khái niệm cơ bản của lễ giáo phong kiến là NHÂN, NGHĨA, ÐẠO ÐỨC chiếu ứng với ba chữ ĂN, THỊT,NGƯỜI.Như vậy thực chất 3 khái niệm của lễ giáo phong kiến mà giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến cố đề cao chính là 3 chữ ĂN, THỊT,NGƯỜI. Bằng lối chiếu ứng, tác giả đã làm cho mọi người nhận ra bản chất tàn ác của lễ giáo phong kiến. Dù cho giai cấp thống trị của xã hội phong kiến cố đề cao và tô son điểm phấn cho 3 khái niệm NHÂN , NGHĨA, ÐẠO ÐỨC đầy màu mè lòe loẹt, nhưng bên trong 3 khái niệm đó lại là 3 chứ ĂN THỊT NGƯỜI vô cùng dã man tàn ác. Lỗ Tấn đã xé toạc tấm bình phong che đậy bản chất của lễ giáo phong kiến để cho mọi người thấy được chân tướng của nó. Ba khái niệm NHÂN, NGHĨA, ÐẠO ÐỨC được giai cấp thống trị của xã hội phong kiến tôn vinh và xem là thiêng liêng. Nhưng Lỗ Tấn đã hạ bệ ba khái niệm ấy bằng cách nói chưa đựng cả thái độ khinh bỉ, xem thường: ở trang nào cũng có mấy chữ NHÂN, NGHĨA, ÐẠO ÐỨC.. viết lung tung tý mẹt. Viết lung tung tý mẹt là việt xiên xẹo, nguyệch ngoạc, méo mó, chữ này chồng lên chữ kia, tùm lum không còn ngay hàng thẳng lối. Như vậy ba khái niệm ấy đâu còn ý nghĩa thiêng liêng nữa ? Nhân vật người điên không có tên nên cũng mang ý nghĩa khái quát rất cao. Tác giả đã tạo dựng thủ pháp biểu tượng hai mặt, lập lờ, nước đôi để xây dựng hình tượng nhân vật người điên. Ðây là một sáng tạo độc đáo của Lỗ Tấn trong truyện ngắn đầu tay của ông. Thủ pháp nghệ thuật biểu tượng hai mặt được thể hiện ở việc xây dựng nhân vật người điên mà không điên, không điên mà lại là điên. Thủ pháp nghệ thuật này đã l1ch khỏi lưỡi kéo kiểm duyệt của các nhà cầm quyền thời đó. Nhân vật người điên mà lại không điên, nói cách khác nhân vật người điên ở đây lại là một bậc thông thái và phải là một bậc thông thái mới tra cứu được lịch sử để truy tìm cội nguồn của nạn ăn thịt người. Lỗ Tấn đã để cho nhân vật người điên mở một cuộc hành trình để truy cầu sự thực, để khám phá chân lý, để phát hiện bản chất đích thực của lễ giáo phong kiến tàn ác. Nhân vật người điên đã lôi được tim đen của lễ giáo phong kiến ra ngoài ánh sáng. Trước Lỗ Tấn, nhiều nhà văn Trung Quốc đã lên tiếng phê phán lễ giáo phong kiến Trung Quốc. Nhưng chưa có một nhà văn nào dám lớn tiếng tố cáo và buộc tội một cách đanh thép, lên án một cách hùng hồn, mạnh mẽ và gay gắt đối với lễ giáo phong kiến như Lỗ Tấn trong Nhật ký người điên. Nhân vật người điên tuyên chiến với lễ giáo phong kiến nênd đây là hình ảnh của một người chiến sĩ dân chủ đầy dũng khí. Nhân vật người điên còn là phát ngôn nhân cho tác giả .

Thủ pháp biểu tượng hai mặt, tạo nên tác dụng kép : Một mặt tránh được sự kiểm duyệt của giai cấp thống trị, mặt khác đã làm tăng thêm mức độ tố cáo. Nó tố cáo một cách trực diện, gay gắt, kịch liệt, không một chút dung hòa, thỏa hiệp đối với lễ giáo phong kiến. Sự khám phá của nhân vật người điên trong tác phẩm này cũng giống như sự khám phá của nhân vật Hamlet trong vở kịch cùng tên của Shakespear. Giưa buổi bình minh của xã hội tư bản, nhân vật Hamlet đã phát hiện ra rằng: Cả thế giới là một nhà ngục mà Ðan Mạch là nhà ngục ghê tởm nhất.Nhân vật người điên cũng đã phát hiện ra rằng: trong xã hội phong kiến, con người ăn thịt lẫn nhau bằng sự duy trì lễ giáo phong kiến.

Trong khi xây dựng hình tượng người điên, tác giả còn tạo dựng những hình ảnh cảm giác rất phù hợp với ấn tượng của người điên. Hình ảnh cảm giác đó là ánh mắt con chó nhà họ Triệu, ánh mắt con cá khô mà nhân vật Năm Trần đưa vào cho người điên, ánh mắt của người đàn bà đều là những ánh mắt dữ dằn dễ sợ, gây được ấn tượng đáng ghê tởm. Tác giả còn tạo dựng hình ảnh mang tính mô tuyp như hình ảnh con chó nhà họ Triệu. Ngoài ra tác giả còn tạo dựng hình ảnh tượng trưng. Ðó là hình ảnh cuốn sổ nợ của cụ Cổ Cửu, tượng trưng cho món nợ truyền kiếp mà quần chúng lao động phải chịu. Việc nhân vật người đên dẫm lên cuốn sổ nợ cũng thể hiện được dũng khí của người điên. Tính chất phản phong của Nhật ký người điên rất cao. Tác phẩm đã tập trung đánh vào lễ giáo phong kiến. Nên nó mang được tinh thần dân chủ. Nhật ký người điên của Lỗ Tấn là một sự sáng tạo so với Nhật ký người điên của Gôgôn. Nhật ký người điên của Gôgôn rất rời rạc và tản mạn. Còn Nhật ký người điên của Lỗ Tấn thì mọi chi tiết đều châu tuần xung quanh một vấn đề. Ðó là vấn đề lễ giáo phong kiến ăn thịt người. Nhân vật trung tâm trong Nhật ký người điên của Gôgôn có tên là Pốp-ri-sin, còn nhân vật trung tâm trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn hoàn toàn không có tên. Ý nghĩa tố cáo trong Nhật ký người điên của Gôgôn là sự tráo trở trong đạo đức của con người do tác động của đồng tiền Vì đồng tiền mà bọn tham lam ấy, bọn Juđa ấy,se bán cha, bán mẹ, bán cả Chúa . Còn ý nghĩa tố cáo trong Nhật ký người điên của Lỗ Tấn lại là sự tàn ác dã man của lễ giáo phong kiến .

Mặc dù nhân vật người điên sống trần trụi giữa bầy sói, song nhân vật này không mất hết niềm tin vào bản tính thiện của con người. Tác giả đã có được một cách lý giải khá sáng suốt về căn nguyên dẫn đến nạn ăn thịt người. Ðó là lễ giáo phong kiến đầu độc con người. Những kẻ ăn thịt người vốn trước đây là những người lương thiện, nghèo khổ, bị áp bức: bọn họ trước kia có kẻ bị ông huyện cùm kẹp, có kẻ bị thân hào vả miệng, có kẻ bị nha lại cướp vợ cướp con, có kẻ cha mẹ bị chủ nợ bức quá phải tự sát... Nhân vật người điên đã kêu gọi và cảnh tỉnh mọi người: Các người có thể thay đổi được, hãy thành tâm mà thay đổi đi.

Kết thúc tác phẩm, nhà văn đã để cho nhân vật người điên kêu to lên rằng: Hãy cứu lấy các em. Ðó là một tiếng kêu khẩn thiết của tấm lòng nhân đạo khác hẳn với tiếng kêu của nhà văn Ăng-dre-Gít khi ông này nghiên cứu về Ðốt-xtôi-epxki: Con người là cái gì?Họ từ đâu tới và học sẽ đi tới đâu?. Ðây là tiếng kêu chưa đầy sự hoài nghi về con người. Còn tiếng kêu của nhân vật người điên lại chứ đựng bao nhiêu tình cảm của niềm tin yêu con người. Tuy nhiên, tiếng kêu kết thúc Nhật ký người điên còn phảng phất tinh thần của tiến hóa luận.

THUỐC


Truyện Thuốc lần đầu tiên được in trên tờ tạp chí Thanh niên mới - Tân thanh niên số ra tháng 5 năm 1919. Ðây là một truyện ngắn luận đề gồm bốn chương. Chương một tác giả miêu tả việc lão Hoa Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người. Chương hai miêu tả việc cu Thuyên ăn chiếc bánh bao thấm máu người. Chương ba cảnh trong quán trà lão Hoa Thuyên.

Chương bốn miêu tả cảnh trên nghĩa địa. Là một truyện ngắn luận đề nên Thuốc gần như không có cốt truyện. Các chương được sắp xếp tưởng như rời rạc, nhưng nó lại có mối quan hệ tiềm ẩn bên trong. Ðó là mối quạnhê lôgic , quan hệ nhân quả. Chương I là nhân, chương II là quả . Chương I, chương II là nhân chương III, chương IV là quả. Kết cấu của truyện Thuốc tưởng như rời rạc, giữa các chương gần không có quan hệ gắn bó với nhau . Nhưng thực ra nó lại có mối quan hệ chìm, tiềm ẩn giữa các chương. Là một tác phẩm văn chương, nhưng truyện ngắn Thuốc không dùng kết cấu của tư duy hình tượng, mà lại dùng kết cấu của tư duy luận lý, tư duy lôgíc. Nên quan hệ của bốn chương là quan hệ nhân- quả. Bốn chương của truyện móc xích với nhau trong mối quan hệ nhân- quả.

Nhan đề của truyện ngắn là Thuốc hàm chứa ý nghĩa sâu xa, mang dụng ý của tác giả. Trong truyện có bài thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao thấm máu người. Thuốc ở đây là thuốc để chữa bệnh. Song không phải là thuốc để chữa bệnh cho cơ thể mà làthuốc để chữa bệnh tinh thần cho dân chúng Trung Hoa.

Ðề tài của truyện Thuốc là thực trạng xã hội Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi.

Chủ đề của truyện là : thực trạng đen tối, ngột ngạt bế tắc của xã hội Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi 1911 .

Tuy chỉ là một truyện ngắn nhưng Thuốc có tầm khái quát rất rộng lớn. Nhà văn như thâu tóm được tòan bộ thực trạng xã hội Trung Quốc trứớc Cách mạng Tân hợi .
Chương I : Lão Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người .

Tác giả đã sử dụng yếu tố thời gian nghệ thuật ở ngay đầu chương . Lão Hoa Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người vào lúc : Một đêm thu gần về sáng . Trăng lặn rồi nhưng mặt trời chưa mọc . Ðó là thời điểm tranh tối tranh sáng , đó cũng là lúc đen tối nhất trước khi xuất hiện buổi bình minh . Ðây không phải là thời gian vật lý , thời gian của vũ trụ mà là thời gian do tác giả tạo nên một cách có dụng ý nghệ thuật . Lão Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người vào thời điểm ấy bởi bản án tử hình của Hạ Du cũng được thực thi vào thời điểm ấy. Yếu tố thời gian ở đây hòan toàn trái với thông lệ. Ở Trung Quốc thời này thực thi mỗi khi thực thi một bản án tử hình thì đều phải kèm theo yêu cầu thị chúng. Thị chúng là xử tử hình trước đông đảo công chúng để uy hiếp những người còn sống giữa lúc thanh thiên, bạch nhật. Vậy mà ở đây, bản án tuẻ hình của Hạ Du lại được thực thi vào thời điểm tranh tối, tranh sáng. Nên việc để cho nhân vật lão Hoa Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người vào lúc Trăng lặn rồi nhưng mặt trời chưa mọclà dụng ý của tác giả. Yếu tố thời gian ở đây là yếu tố thơiì gian nghệ thuật . Với yếu tố thời gian nghệ thuật này, Lỗ Tấn đã tố cáo sâu cay và gay gắt đối với giai cấp thống trị vô cùng tham lam và tàn ác trong xã hội Trung Quốc thời ấy. Thực chất của việc thực thi bản án tử hình này là: giết người để lấy máu mà bán. Người thực thi bản án tử hình là tên đao phủ. Yếu tố thời gian nghệ thuật đã góp phần khắc họa hành động đen tối và tàn ác của tên đao phủ và của cả giai cấp thông trị. Việc giết người để lấy máu mà bán của tên đao phủ là hành động giống như loài chim đêm, sợ ánh sáng, chạy trốn buổi bình minh, mượn màn đêm làm bức bình phong để che đậy tội ác .

Lão Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người với tâm trạng sảng khóai và như có ai cho phép mình cải tử hòan sinh. Ðiều này chứng tỏ nhân vật lão Hoa Thuyên vui, tin và mong muốn. Lão Hoa Thuyên cũng như những người dân Trung Quốc thời bấy giờ đều tin bánh bao thấm máu người sẽ chữa được bệnh lao, mặc dù chiếc bánh bao thấm máu người hoàn tòan không có cơ sở dược tính để chữa trị bệnh lao Trong khi cu Thuyên - đứa con trai của lão - đang bị bệnh lao nặng nênlão tin rằng chiếc bánh bao thấm máu người sẽ cứu được mạng con lão. Vì vậy lão vui và hí hửng vì chiếc bánh bao chưa nằm trong tay lão. Từ đó lão mong muốn sẽ mua được chiếc bánh bao thấm máu người thì cũng có mong muốn song cùng nữa là : mong có người bị giết để máu mà mua. Ðây là biểu hiện sự dã man,tàn ác không ý thức của lão Hoa Thuyên. Sự dã man tàn ác không ý thức của lão Thuyên bắt nguồn từ lòng thương con nhưng chủ yếu là từ sự mê tín. Miêu tả tâm trạng của lão Thuyên hư thế, Lỗ Tấn vừa tỏ rõ sự thông cảm vừa phê phán nghiêm khắc đối với nhân vật lão Thuyên cũng như đối với quần chúng lao động Trung Quốc thời ấy sống chìm trong sự ngu dốt và mê tín. Ðiều này cũng thể hiện khá rõ phương châm của Lỗ Tấn: khi ông xây dựng các nhân vật quần chúng lao động hay các chiến sĩ cách mạng Ai kỳ bất hạnh, nộ kỳ bất tranh (Thương họ vì bất hạnh, giận họ vì không biết đấu tranh ) .

Khi lão Thuyên xuất hiện ở trường chém thì có tiếng reo thích nhé. Ðó tiếng reo man rợ của kẻ bán máu người tìm được bạn hàng mua máu người. Ở đây máu người đã trở thành món hàng. Việc buôn bán nô lệ đã là dã man nhưng dù sao còn giữ được sinh linh. Còn việc mua bán máu người thì lại càng dã man hơn bởi sát hại sinh linh ở ngay chương I, tác giả đã miêu tả cảnh mua bán máu người có mặc cả, có trả giá Tiền đâu đưa đây .

Bằng việc kể lại chuyện lão Thuyên đi mua chiếc bánh bao thấm máu người , Lỗ Tấn đã khái quát xã hội Trung Quốc trước Cách mạng Tân hợi là một hội chợ bán máu người. Xã hội Trung Quốc thời bấy giờ tanh rình mùi máu người .
 

cohonnhien

Thành viên
#12
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p12)

Chương II : Cụ Thuyên ăn chiếc bánh bao thấm máu người .

Hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người xuất hiện trong truyện ngắn này như là một nhân vật. Ở chương I, tác giả đã miêu tả chiếc bánh bao thấm máu người, máu còn nhỏ từng giọt từng giọt Ở chương III, tác giả lại để cho nhân vật Cả Khang nói về chiếc bánh bao thấm máu người còn nóng hôi hổi, còn nóng hôi hổi. Hình ảnh nay đã trở thành đầu mối của câu chuyện, là trung tâm để nối kết các chi tiết các chi tiết khác trong truyện. Hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người là một hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc khiến cho thiên truyện ngắn này có tính chất hàm súc cao.

Chiếc bánh bao thấm máu người là kết quảcua một cuộc mua bán máu người. Trong đó có cả kẻ bán và có cả người mua. Kẻ bán ở đây là tên đao phủ - đại diện cho giai cấp thống trị ở Trung Quốc thời ấy. Nói là thực thi bản án tử hình nhưng thực chất giết người để lấy máu mà bán. Nên trước hết hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người là hiện thân của sự tàn ác và tham lam của giai cấp thống trị của Trung Quốc trước Cách mạng Tân Hợi - 1911 .

Người mua ở đây là lão Thuyên đại diện cho quần chúng lao động Trung Quốc thời ấy. Lão Thuyên tin bằng cả sự mê tín về chiếc bánh bao thấm máu người có thể chữa bệnh lao cho con mình. Niềm tin mơ hồ ấy thể hiện một sự mê muội, ngu dốt. Nên hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người còn là hiện thân của sự mê tín ,ngu dốt của quần chúng lao động Trung Quốc thời ấy .

Máu trong chiếc bánh bao thấm máu người này là máu của Hạ Du - một chiến sĩ Cách mạng Tân hợi ( nhân vật Hạ Du được xây dựng dựa vào nguyên mẫu nũ chiến sĩ Thu Cận. Thu Cận đã bị triều đình Mãn Thanh xử tử năm 1907 ). Máu của Hạ Du là máu của một chiến sĩ Cách mạng vậy mà cũng không thể chữa hết bệnh cho cu Thuyên, cu thuyên ăn máu của Hạ Du mà vẫn chết. Hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu Hạ Du còn là hiện thân của sự xa rời quần chúng của các chiến sĩ cách mạng thời ấy. Làm cách mạng là phải gieo ý thức cách mạng trong quần chúng bởi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nhưng Hạ Du cũng như các chiến sĩ cách mạng thời ấy hòan tòan xa rời quần chúng . Giá như sinh thành Hạ du đến được với quần chúng để tuyên truyền giác ngộ quần chúng như cu Thuyênthì chắc chắn là cu Thuyên sẽ không ăn máu của Hạ Du. Bằng hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu Hạ Du - máu của một chiến sĩ cách mạng - mà cu Thuyên - một quần chúng - ăn vẫn chết. Tác giả đã phê phán các chiến sĩ cách mạng thời ấy đã bỏ rơi quần chúng .

Chiếc bánh bao thấm máu người khi nướng lên nhất định sẽ tỏa mùi khét lẹt, tanh rình. Máu của động vật đã khét, máu của người còn khét hơn. Vậy mà chiếc bánh bao thấm máu Hạ Du khi nướng lên lại tỏa mùi hương ngào ngạt cả quán lão Thuyên khiến cho Năm Gù cũng phải tấm tắc khen: Thơm ghê thật! Hai bác ăn quà sáng gì đấy. Chi tiết này hòan tòan trái với lôgic thông thường. Chi tiết này thuộc về lôgic nghệ thuật. Mùi thơm ở dây là mùi thơm của tinh thần và khí phách Hạ Du. Bằng chi tiết này, tác giả đã gián tiếp ca ngợi Hạ Du một cách kín đáo. Ðối với nhân vật Hạ Du, trong hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người có một phản đề. Phản đề đó là tác giả vừa phê phán vừa ca ngợi Hạ Du. Ca ngợi tinh thần, khí phách và phê phán sự xa rời quần chúng của Hạ Du. Ðiều này thể hiện sự mẫn cảm của Lỗ Tấn.

Chương III : Trong quán trà lão Thuyên.

Nếu như ở chương I có yếu tố thời gian nghệ thuật thì chương III, IV có yếu tố không gian nghệ thuật. Không gian ở đây là quán trà lão Thuyên . Yếu tố không gian này là nơi gặp gỡ của nhiều nhân vật mà câu chuyện những nhân vật này trao đổi với nhau là về chiếc bánh bao thấm máu người và cái chết của Hạ Du. Ở chương này có nhân vật tác giả mô tả trực tiếp như các nhân vật : ông bà Hoa Thuyên, cụ Thuyên, cả Khang, Năm Gù nhưng cũng có những nhân vật tác giả mô tả theo lối gián tiếp. Ðó là hai nhân vật đối cực Hạ Du và đề lao Nghĩa. Hai nhân vật này hiện lên qua lời kể của cả Khang. Mô tả nhân vật gián tiếp thì sẽ làm cho hình tượng mang tính khách quan nên chân thực. Việc để cho nhân vật cả Khang nói về Hạ Du và về đề lao Nghĩa để xây dựng một cách gián tiếp còn tạo nên được một hiệu quả lớn là nhất cự lưỡng tiện một mũi tên bắn trúng hai đích . Nếu tác giả trực tiếp mô tả Hạ Du và đề lao Nghĩa thì may lắm chỉ phê phán và ca ngợi gián tiếp Hạ Du, đồng thời tố cáo tội ác và tham lam của đề lao Nghĩa. Còn việc tác giả để cho nhân vật cả Khang nói về Hạ Du và nói về đề lao Nghĩa thì cùng một lúc vừa phê phán nhân vật cả Khang (qua ngôn ngữ của chính nhân vật này )vừa phê phán ca ngợi Hạ Du và tố cáo tội ác của đề lao Nghĩa. Lối xây dựng nhân vật gián tiếp ở đây cũng có tác dụng tạo nên tính hàm súc cho tác phẩm. Cùng một lúc, Lỗ Tấn phê phán quần chúng lao độüng như : cả Khang chưa đến được với Cách mạng nên nói về cái chết của người chiến sĩ Cách mạng Hạ Du bằng lời lẽ khinh bỉ, miệt thị và cả Khang còn là người làm mai mối trung gian cho cuộc mua bán máu người; lại vừa ngợi người chiến sĩ Cách mạng như Hạ Du một cách khách quan và kín đáo (qua lời kể của cả Khang), đồng thời tố cáo sự tham lam và tàn ác của giai cấp thống trị như đề lao Nghĩa (qua ngôn ngữ của nhân vật cả Khang) .

Nhân vật cả Khang ngay từ phút đầu xuất hiện trong quán trà lão Hoa Thuyên đã bô bô tâng công về việc làm trung gian, làm mai mối cho lão Thuyên mua chiếc bánh bao thấm máu người. Ðó là việc làm mang rợ đê tiện. Vậy mà cả Khang đã tự đề cao việc làm đó. Cả Khang đã nói tới chiếc bánh bao thấm máu người bằng cảm giác ngon lành còn nóng hôi hổi, còn nóng hôi hổi. Có thể nói nhân vật này đã làm một tụng ca về chiếc bánh bao thấm máu người mà không biết tởm lợm. Ðiều này chứng tỏ cả Khang cũng như quần chúng lao động Trung Quốc lúc này sống trong tình trạng tê liệt.

Hai nhân vật đối cực được xây dựng gián tiếp qua lời kể của cả Khang đã hiện lên khá rõ nét. Ðối với Hạ Du, nếu bóc lớp vỏ của thứ ngôn ngữ mang giọng phỉ báng, khinh miệt của cả Khang thì hiện lên một Hạ Du đầy dũng khí. Trong tù, hạ du còn tiếp tục tuyên truyền cách mạng, không khuất phục trước những bạt tai của đề lao Nghĩa. Cũng như qua lời kể của cả Khang, tác giả đã gián tiếp phê phán Hạ Dungờ nghệch, ấu trĩ, mơ hồ. Hạ Du là một chiến sĩ Cách mạng, song Hạ Du không tuyên truyền giác ngộ đối với quần chúng mà Hạ Du lại tuyên truyền với đề lao Nghĩa .

Ðối với nhân vật đề lao Nghĩa, tác giả đã gían tiếp tố cáo và vạch trần bản chất tham lam, tàn ác, táng tận lương tâm. Ðề lao Nghĩa đã cướp manh áo cuối cùng của người tử tù Hạ Du. Nếu như ở chương đầu, nhà văn đã miêu tả tên đao phủ chém Hạ Du để lấy máu mà bán thì ở chương này, ông lại xây dựng nhân vật đề lao Nghĩa - một kẻ có lòng tham lam không đáy và táng tận lương tâm - đã cướp của Hạ Du mảnh áo cuối cùng. Hai nhân vật này đại diện cho giai cấp thống trị ở Trung Quốc thời đó .

Nhà văn để cho nhân vật cả Khang nói về Hạ Du bằng những lờ lẽ mang giọng khinh miệt, phỉ báng. Ðiều này chứng tỏ cả Khang chưa đến được với Cách mạng và những chiến sĩ Cách mạng chưa đến được với những quần chúng như cả Khang. Nên mặc du Hạ Du làm cách mạng, song cái chết của Hạ Du không hề làm cho những quần chúng như Cả Khang phải thương tiếc . Nhan vật Cả Khang lại bộc lộ sự tê liệt, mất hết cảm quan hiện thực. Cả Khang hoàn toàn không biết Hạ Du làm cách mạng để đem lại một phần cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình. Ở đây, Lỗ Tấn tiếp tục phê phán những chiến sĩ họat động thời cách mạng Tân hợi đã xa rời quần chúng, bỏ rơi quần chúng và quần chúng như Cả Khang thì lại sống trong tình trạng hết sức kê muội .
Chương IV : Trên nghĩa địa

Ở chương này cũng có yếu tố không gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trên nghĩa địa. Nhà văn đã để cho hai bà mẹ (mẹ Hạ Du và mẹ cu Thuyên ) gặp nhau trên nghĩa địa. Hai bà mẹ thuộc lớp tuổi mút chót của cuộc đời lại gặp nhau trên nghĩa địa - mảnh đất chôn xác người. Yếu tố không gian được nhà văn tạo dựng theo dụng ý của mình chính là không gian nghệ thuật. Yếu tố không gian trên nghĩa địa đã góp phần khắc họa chủ đề .

Yếu tố không gian nghệ thuật đã làm tôn thêm sự bi thảm, bế tắc của thực trạng xã hội Trung quốc. Nghĩa địa này là nghĩa địa Cổ Hiên Ðình Khẩu - nơi chôn xác những người nghèo như cu Thuyên và những người hoạt động Cách mạng như Hạ Du. Tác giả đã so sánh ngôi mộ ở nghĩa địa Cổ Thiên Ðình Khẩu: như những chiếc bánh bao của người giàu trong ngày mừng thọ. Ðây là lối so sánh rất sâu rất đau, hàm chứa một ý nghĩa tố cáo rất gay gắt. Lối so sánh này cũng tạo nên một sự đối lập để làm nổi bật sự tham lam tàn ác của giai cấp thống trị. Những người nằm dưới những ngôi mộ này như cu Thuyên và Hạ Du đều là những người chết trẻ, chết non ,chết yểu. Vậy mà mộ của họ lại được so sánh như như những chiếc bánh bao của những kẻ giàu có, sống lâu trong ngày mừng thọ. Một đằng là chết non, chết yểu, một đằng là mừng thọ sống cao tuổi .Ðó là sự đối lập hoàn toàn. Từ đó tác giả tố cáo tội ác của giai cấp thống trị: sống phè phỡn, sống sung sướng trên xương xương máu của những người nghèo và chiến sĩ cách mạng. Lối so sánh này còn tạo nên sự thống nhất của chỉnh thể hình tượng. Ở các chương trên đã xuất hiện hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người thì ở đây lại xuất hiện những hình ảnh so sánh chiếc bánh bao của nhà giàu ngày mừng thọ. Nhà văn đã miêu tả quang cảnh khu vực nghĩa địa bằng đọan văn rất giàu tính tạo hình Gió đã tắt, những ngọn cỏ khô đứng thẳng tắp như những sợi dây đồng. Một tiếng rên rỉ run run đưa lên giữa không trung nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn. Xung quanh vắng lặng như tờ. Hai bà già đứng giữa đám cỏ khô ngước mắt nhìn con quạ. Con quạ vẫn đậu trên cành khô trụi lá, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt. Ðoạn văn này vừa mang yếu tố hội họa, vừa mang yếu tố điêu khắc. Ðúng là: Văn trung hữu họa . Nhưng nó không chỉ là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh. Quang cảnh khu vực nghĩa địa được miêu tả dưới con mắt của nhân vật hai bà mẹ. Quang cảnh khu vực nghĩa địa đầy tử khí, ì hiu hắt và vắng lặng. Cỏ khô, cành khô của cây chết đứng. Nhà văn miêu tả âm thanh để tôn thêm sự vắng vẻ và hiu quạnh của khu vực nghĩa địa. Vắng vẻ đến chừng nào thì mới nghe được một tiếng rên rỉ run run đưa lên giữa không trung nhỏ dần, nhỏ dần rồi tắt hẳn. Bao trùm lên khu vực nghĩa địa là cả một bầu tử khí . Trên nghĩa địa chỉ có sinh thể: mẹ Hạ Du , mẹ cu Thuyên và con quạ . Hai bà mẹ đang sống trong tâm trạng đau đớn, xót xa vì con mới chết. Hai bà mẹ cùng có tâm trạng thất vọng. Có thể nói cả hai bà mẹ đang có nguy cơ là sắp bị chết đuối giữa đại dương của nỗi thất vọng. Nên cả hai bà mẹ đều muốn bám víu vào cái phao sống của niềm hi vọng. Phao sống - niềm hy vọng của hai bà già - là con quạ. Nên hai bà già cùng lúc đều nhìn lên con quạ và hai bà đều tin rằng hồn oan của hai đứa con hai bà đều hiện lên ở con quạ. Niềm hy vọng, niềm tin hai bà bắt nguồn tự mê tín. Nên niềm hy vọng của hai bà cũng chính là nổi thất vọng. Hy vọng trong ảo tưởng mà thất vọng trong hiện thực .

Trong chương này nhà văn còn tạo dựng nên hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du. Hình ảnh này hoàn toàn mang dụng ý của nhà văn. Hình ảnh này cũng không có gì là trái với lôgic nội tại của truyện bởi nó nằm trong truyện ngắn luận đề (lôgic nội tại quy luật bên trong của tác phẩm). Dụng ý của tác giả khi tạo nên hình ảnh là để làm cho tác phẩm có được ít nhiều không khí lạc quan, mặt khác để biểu lộ tình cảm thương tiếc đối với những chiến sĩ cách mạng đã chết.

Trong truyện ngắn này tác giả miêu tả hai cái chết: một là cái chết của cu Thuyên và hai là cái chết của Hạ Du. Hai cái chết này đều mang tính bi kịch. Ðây cũng chính là tấn bi kịch của lịch sử xã hội Trung Quốc thời bấy giờ. Nhưng tấn bi kịch ở cái chết của cu Thuyên lại khác với tấn bi kịch của Hạ Du. Tính bi kịch của cái chết của cu Thuyên theo nghĩa của Mác: Chừng nào còn sự ngu dốt thì tôi e rằng chừïng ấy nhân loại còn phải chứng kiến nhiều tấn bi kịch (xã luận báo Rênani). Như vậy, ngu dốt đẻ ra bi kịch, vì mê tín vì ngu dốt, cụ Thuyên đã ăn chiếc bánh bao thấm máu người và phải chết. Còn tấn bi kịch của cái chết của Hạ Du lại theo nghĩa của Ăng-ghen: Sự xung đột có tính bi kịch giữa cái định lí tất yếu về phương diện lịch sử và việc không thể thực hiện được định lí đó về phương diện thực tiễn Hạ Du đã chết. Cái chết của Hạ Du là một bi kịch thể hiện sự bế tắc của xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. Truyện ngắn này được mở màn bằng cách mua bán máu người và kết thúc bằng cảnh trên nghĩa địa. Mở đầu và kết thúc như thế đã tô đậm chủ đề của tác phẩm. Mặc dù nhà văn kết thúc tác phẩm bằng hình ảnh con quạ sải cánh bay đến chân trời xa. Nhưng không khí chung của tác phẩm rất nặng nề, u ám và ngột ngạt như chính sự đen tối bế tắc của xã hội Trung Quốc thời ấy. Nhà văn không sự dụng lối kết cấu của tư duy hình tượng mà đã sử dụng lối kết cấu của tư duy logic. Ðiều này được thể hiện trong mối quan hệ giữa các chương - mối quan hệ nhân- quả. Chương I là nhân, chương II là quả chương III nhân. Nhà văn không dùng tư duy logic để phân tích xã hội Trung Quốc mà đã dùng tư duy hình tượng để phân tích. Nhà văn đã phân tích thực trạng xã hội Trung Quốc bằng việc xây dựng hình tượng các nhân vật. Thực trạng của xã hội Trung Quốc trước Cách Mạng Tân Hợi (10-10-1911 ) được nhà văn phân tích như sau:

Giai cấp thống trị (hiện lên ở hai nhân vật : tên đao phủ - chương II và đề lao Nghĩa - chương III )vô cùng tham lam tàn bạo , chúng đã biến máu người thành một thứ hàng hóa.

Những người chiến sĩ Cách mạng ( hiện lên ở nhân vật Hạ Du )thì xa rời quần chúng, bỏ rơi quần chúng không gieo mầm được ý thức Cách mạng trong quần chúng , non nớt , mơ hồ.

Quần chúng lao động (hiện lên ở vọ chồng Hoa Thuyên, cả Khang, Năm Gù ) thì sống trong tình trạng mê tín, ngu dốt và tê liệt. Ðó chính là thực trạng bế tắc, ngột ngạt của xã hội Trung Quốc mà nhà văn đã khaí quát và phân tích bằng hình tượng.
 

cohonnhien

Thành viên
#13
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p13)

Ngoài việc khắc họa hình ảnh chiếc bánh bao thấm máu người, khắc họa những ngôi mộ trên nghĩa địa Cổ Hiên Ðình Khẩu, tác giả còn phác họa hình ảnh con đường dẫn đến khu nghĩa địa này: Ở giữa có con đường nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắc dẫm mãi thành đường. Kết thúc truyện ngắn Cố Hương cũng có hình ảnh con đường: Tôi nghĩ bụng: Dã gọi là hy vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kỳ thực, trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi. Phải chăng hình ảnh con đường trong truyện Thuốc và hình ảnh con đường trong truyện Cố Hương là một ? Tuy cũng là hình ảnh con đường , nhưng con đường ở truyện Cố Hương là con đường trong niềm tin của Lỗ Tấn hướng tới một tương lai tốt đẹp xóa sạch mọi nghịch cảnh bất công và ngăn cách ; còn con đường trong Thuốc thì đang laì nhỏ hẹ, cong queo, là cái ranh giơi tự nhiên để phân cách ngăn cách giữa những người chiến sĩ cách mạng như Hạ Du với quần chúng, như gia đình Hoa Thuyên, cả Khang, Năm Gù... Không chỉ sống họ mới cách biệt nhau mà cho đến khi chết họ cũng cách biệt nhau bởi con đường mòn nhỏ hẹ, cong queo ấy: Nấm mộ này với nấm mộ thằng Thuyên nằm CÙNG MỘT HÀNG, CHỈ CÁCH CON ÐƯỜNG MÒN ở GIỮA. Hình ảnh con đường trong Thuốc thể hiện NỖI XÓT XA của Lỗ Tấn trước thực cảnh: CON ÐƯỜNG MÀ HỌ ÐÃ ÐI VÀ CÙNG ÐI khi họ còn sống, nhưng do chưa đến được với nhau, chưa hiểu nên con đường ấy đã trở thành RANH GIỚI NGĂN CÁCH, TÁCH BIỆT, CHIA CẮT họ khi họ đã chết.

Tác giả so sánh những ngôi mộ trên nghĩa địa như chiếc bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ.
Vềhình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du, trong bài Tựa viết lấy, Lỗ Tấn đã giải trình: Nhưng đã gào thét, thì tất nhiên phải gào thét theo mệnh lệnh của chủ tướng. Cho nên đôi khi tôi không ngại viết những điều xa với sự thực. Trong truyện Thuốc , bỗng dưng tôi thêm một vòng hoa trên nấm mộ anh Du, hay trong truyện Ngày mai, tôi không kể chuyện chị Tư Thiền cuối cùng vẫn không nằm mộng thấy đứa con của chị, BỞI VÌ VỊ CHỦ TƯỚNG BẤY GIỜ CHỦ TRƯƠNG KHÔNG ÐỂ CHO NGƯỜI TA ÐI ÐẾN CHỖ TIÊU CỰC. Còn tôi, TÔI CŨNG KHÔNG MUỐN ÐEM NỖI QUẠNH HIU MÀ MÌNH CHO LÀ ÐAU KHỔ LÀM LÂY SANG NHỮNG NGƯỜI THANH NIÊN ÐANG ÔM ẤP NHỮNG MỘNG ÐẸP NHƯ TÔI HỒI CÒN NIÊN THIẾU . (1) Như vậy, hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du hòan tòan được hư cấu theo dụng ý của tác giả mà không có gì trái với lôgic nội tại của tác phẩm. Hình ảnh này đã tạo nên ý vị lạc quan cho tác phẩm và giêo vào lòng người đọc một niềm tin tưởng khi tác giả Không muốn đem nỗi quạnh hiu mà mình cho là đau khổ làm lây sang những người thanh niên đang ôm ấp những mộng đẹp.
CỐ HƯƠNG

Cố hương là một truyện ngắn trữ tình . Nhân vật trungtâm trong thiên truyện ngắn là Nhuận Thổ . Nhuận Thổ là một nông dân .

Ðề tài của Cố hương là đề tài nông dân . Nhân vật Nhuận Thổ được nhà văn Lỗ Tấn miêu tả trong hai thời điểm quá khứ và hiện tại . Khi xây dựng nhân vật Nhuận Thổ , tác giả đã dùng lối đồng hiện về thời gian . Trình tự thời gian không tuân từ quá khứ đến hiện tại , tương lai mà từ hiện tại đến quá khứ , từ quá khứ trở về hiện tại , từ hiện tại trở về quá khứ rồi đến tương lai . Câu chuyện bắt đầu từ thì hiện tại . Nhà văn kể lạichuyến về thăm quê hương lần cuối cùng sau hai mươi năm xa cách . Ðó là thì hiện tại . Sau đó , nhân vật tôi nghe người mẹ nhắc đến Nhuận Thổ thì hình ảnh Nhuận Thổ ba mươi năm về trước đã hiện lên theo dòng hoài niệm theo mạch hồi tưởng . Ðó là thì quá khứ . Khoảng cách thời gian mà nhân vật tôi xa Nhuận Thổ là ba mươi năm . Thời gian ấy so với lịch sử nhân loại hay một quốc gia thì ngắn ngủi , nhưng so với cuộc đời của một con người thì rất dài . Thủ pháp đồng hiện về thời gian đã rút ngắn khoảng cách thời gian để làm nổi bật SỰ TÀN TẠ VỀ THỂ XÁC VÀ SỰ THA HÓA VỀ TINH THẦN MỘT CÁCH NHANH CHÓNG CỦA NHUẬN THỔ .

Trong truyện ngắn này , tác giả đã nêu lên vấn đề : QUÁ TRÌNH THA HÓA CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN TRUNG QUỐC DƯỚI CHẾ ÐỘ XÃ HỘI CŨ.

Khi xây dựng nhân vật Nhuận Thổ , nhà văn đã kết hợp miêu tả ngoại hình với khắc họa nội tâm . Lỗ Tấn đã đặt nhân vật Nhuận Thổ trong mối quan hệ với hoàn cảnh . Hoàn cảnh đó là nông thôn TrungQuốc dưới chế độ xã hội thuộc địa . Yếu tố hoàn cảnh được tác giả phác họa ngay ở đầu truyện : nhìn qua khe hở mui thuyền thấy thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều hoang vắng nằm im lìm dưới bầu trời màu vàng úa . Cảnh làng quê nông thôn Trung Quốc được miêu tả rất tàn tạ , tiêu điều , xơ xác . Màu vàng úa là màu của sự tàn lụi , in dấu của sự thê lương ảm đạm . Trong hoàn cảnh nông thôn Trung Quốc tiêu điều xơ xác , có bao nhiêu người nông dân như Nhuận Thổ đã rơi vào tình trạng bị tha hóa . Việc đặt nhân vật Nhuận Thổ trong hoàn cảnh để miêu tả chứng tỏ Lỗ Tấn đã sáng tác truyện ngắn này bằng phương pháp của chủ nghĩa hiện thực ( tha hóa : hóa khác tha hóa là sự đánh rơi mất bản tính tốt vốn có của mình ) .

Nhân vật Nhuận Thổ trong thì quá khứ ( ba mươi năm về trước ) là một chú bế nông dân khỏe mạnh , đẹp về thể chất : ngây thơ , hồn nhiên trong trắng và thủy chung về tinh thần . Nhà văn đã miêu tả Nhuận Thổ hiện lên vừa đẹp vừa hùng giữa khung cảnh thơ mộng của quê hương bằng một đọan văn rất giàu tính tạo hình : Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lơ lửng trên nền trời xanh đậm , dưới là một bãi cát bên cạnh bờ biển trồng toàn dưa hấu , bát ngát một màu xanh rờn . Giữa ruộng dưa , một đứa bé trạc 11 , 12 tuổi , cổ đeo vòng bạc , tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba đang cố sức đuổi theo một con tra . Con vật bỗng quay lại , luồn qua háng đứa bé , chạy mất ( tra là tên tác giả bịa ra trên cở sở con heo rừng ) , về ngoại hình của Nhuận Thổ ba mươi năm về trước , Nhuận Thổ là một chú bé rất khỏe mạnh và rất đẹp : nước da bánh mật , cổ đeo vòng bạc , đầu đội một chiếc mũ lông chiên bé tí . Về nội tâm , ba mươi năm về trước , Nhuận Thổ là một chú bé nông dân rất hồn nhiên chân thực . Mặc dù có sự cách bậc về tầng lớp giai cấp ( gia đình Nhuận Thổ thuộc tầng lớp dưới , gia đình nhân vật tôi thuộc tầng lớp trên ) , nhưng khi Nhuận Thổ gặp nhân vật tôi thì hoàn toàn không hề có sự cách bậc mà sống chan hòa , cảm hòa với nhau . Nhuận Thổ gọi nhân vật tôi là anh và tự xưng là em rất thân mật , chân tình . Nhuận Thổ khoe những đặc sản của mình : có nhiều vỏ sò và lông chim rất đẹp , khoe trò bẫy chim và những đêm đi canh ruộng dưa dưới ánh trăng . Ngôn ngữ của chú bé Nhuận Thổ thể hiện đầy đủ sự ngây thơ trong trắng hồn nhiên của chú . Lúc Nhuận Thổ xa nhân vật tôi thì Nhuận Thổ khóc tỏ ra lưu luyến , bịn rịn gắn bó với nhân vật tôi . Sau khi xa nhân vật tôi , Nhuận Thổ không quên gửi cho nhân vật tôi một bịch vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp . Chi tiết này thể hiện tấm lòng thủy chung của Nhuận Thổ đối với bạn .

Ðó là Nhuận Thổ ba mươi năm về trước .

Sau ba mươi năm nhân vật Nhuận Thổ đã khác trước . Nhà văn tiếp tục miêu tả ngoại hình và nội tâm của nhân vật này . Về ngoại hình , trong thì hiện tại Nhuận Thổ cao gấp hai trước , nước da vàng xạm , trên khuôn mặt đã có nhiều nếp nhăn sâu hoắm , dáng co ro cúm núm , đầu đội một chiếc mũ lông chim rách bươm , da bàn tay nứt nẻ như vỏ cây thông . Ngoại hình của Nhuận Thổ trong thì hiện tại trông rất tiều tụy và tàn tạ .

Về nội tâm trong thì hiện tại , khi gặp lại nhân vật tôi , Nhuận Thổ đã chào cung kính : bẩm ông . Tiếng chào này thể hiện cách bậc . Tiếng chào ấy đã đẩy hai người ra hai bờ của đại dương xa thẳm . Nhuận Thổ nói bằng giọng than thở , siếc lóc . Nhân vật than thở , siếc lóc về cảnh nghèo của

mình . Cảnh nghèo của Nhuận Thổ là làm ăn không đủ ăn , sống rất cực khổ . Nhà văn đã để cho nhân vật Nhuận Thổ lý giải về nguyên nhân dẫn đến hòan cảnh nghèo khổ là: con đông , mùa mất , thuế khóa , lính tráng , trộm cắp . Ðể cho nhân vật lý giải như thê ú, Lỗ Tấn đã thể hiện một quan điểm tiến bộ. Nhà văn không xem sự nghèo khổ của Nhuận Thổ là do số phận , định mệnh mà là do chế độ xã hội . Trong hai nguyên nhân tự nhiên và xã hội , Lỗ Tấn đã nghiêng về nguyên nhân xã hội . Nhuận Thổ xin nhân vật tôi đủ thư ï. Nếu như 30 năm về trước , Nhuận Thổ là một chú bé vô tư thì giờ đây Nhuận thổ là một người nông dân rất vụ lợi , rất thực dụng và nhân vật Nhuận Thổ theo lời của thím Hai Dương thì Nhuận Thổ đã lấy cắp của gia đình nhân vật tôi dấu vào đống tro để chờ ngày đem về nhà mình . Nhuận Thổ đã trở thành một kẻ gian dối .

Trong thì hiện tại , Nhuận Thổ là một nông dân tàn tạ về thể xác , tha hóa về tinh thần . Lỗ Tấn đã miêu tả sự tha hóa của nhân vật Nhuận Thổ trong một quá trình và nhà văn đã lý giải một cách đúng đắn về nguyên nhân dẫn đến sự tha hóa của Nhuận Thổ . Ðó là một nguyên nhân xã hội . bên cạnh nhân vật Nhuận Thổ , tác giả còn xây dựng nhân vật thím Hai Dương - nàng Tây Thi đậu phụ - con người có dáng hình như một chiếc compa trong bộ đồ vẽ . Ngọai hình của nhân vật này cũng được tác giả phác họa : cao gầy , khô cứng . Nội tâm của nhân vật thiam Hai Dương được tác giả miêu tả qua ngôn ngữ và hành động của chính nhân vật này . Ngôn ngữ và hành động của nhân vạt nảythê hiện sự tham lam vụ lợi . Nhân vật phụ thím Hai Dương đã góp phần làm nổi bật thêm nhân vật trung tâm là Nhuận Thổ . thông qua hình tượng nhân vật phụ này , nhà văn đã khái quát được rằng : dưới chế độ xã hội cũ ở Trung Quốc thì sự tha hóa của Nhuận Thổ không phải là cá biệt mà là phổ biến . Trong truyện Cố hương Lỗ Tấn còn sử dùng thủ pháp nghệ thuật so sánh đối lập song song để làm tăng thêm giá trị nhân đạo cho tác phẩm . Tình bạn của Nhuận Thổ với nhân vật tôi trong thì quá khứ đối lập với tình bạn của nhân vật tôi Nhuận Thổ trong thì hiện tại ( quá khứ thì tình bạn gắn bó thủy chung , hiện tại cách bậc , xa vời ) . Tình bạn giữa nhân vật Nhuận Thổ với nhân vật tôi trong thì hiện tại đối lập với tình bạn của nhân vật bé Hoằng và nhân vật Thủy Sinh trong thì hiện tại . Thủ pháp này một mặt tiếp tục làm rỏ thêm sự tha hóa của Nhuận Thổ , nhưng mặt khác quan trọng hơn là đề cao tình bạn của tuổi thơ . Tình bạn của nhân vật Nhuận Thổ và nhân vật tôi trong thì quá khứ ba mươi năm về trước ) là tình bạn của tuổi thơ và tình bạn của bé Hoằng và Thủy Sinh trong thì hiện tại cũng là tình bạn của tuổi thơ . Hai tình bạn này giống nhau ở chỗ đều là tình bạn của tuổi thơ , đều có sự gắn bó , thủy chung trong trắng . Ðề cao tình bạn của tuổi thơ là tình bạn của lứa tuổi ngây thơ , hồn nhiên trong trắng và chưa hề dính chút bụi đời . Tình bạn của tuổi thơ cũng là tình bạn rất đẹp . Ðề cao tình bạn của tuổi thơ là rất nhân đạo .

Ở cuối truyện , nhà văn đã tạo dựng hình ảnh tượng trưng . Ðó là hình ảnh con đường đi đến tương lai , hiện thân của niềm tin , niềm hi vọng của tác giả : Tôi nghĩ bụng : đã gọi là hy vọng thì không thể nói đâu là thực , đâu là hư . cũng gjiống như những con đường trên mặt đất ; kỳ thực ,trên mặt đất vốn làm gì có đường . Người ta đi mãi thì thành đường thôi . Hình ảnh tượng trưng này cũng đã bộc lộ khát vọng về sự đổi thay của tác giả nên nó có giá trị . Khát vọng này chính là nhu cầu trần tục của con người trần tục của Lỗ Tấn .

Việc tác giả đề cao tình bạn của tuổi thơ cũng như thể hiện niềm khát vọng về sự đổi thay trong lai là rất nhân đạo . Song tinh thần nhân đạo của Lỗ Tấn thời mà ông viết Cố hương đã chịu sự chi phối của yhuyết tiến hóa , nên có hạn chế . Ông đề cao quan điểm tình bạn tuổi thơ theo quan điểm sinh mệnh của thế hệ trẻ sẽ hơn sinh mệnh của thế hệ già . Hình ảnh tượng trưng con đường đi tới tương lai ở cuối truyện là sự thể hiện của quan điểm : ngày mai sẽ hơn ngày hôm nay . Những quan điểm này đều mang đậm nét màu sắc của thuyết tiến hóa . Thuyết tiến hóa lý giải qui luật tiến hóa mang tính đặc thù của tự nhiên . Qui luật của xã hội không thể đồng nhất với quy luật của tự nhiên .Trong xã hội có qui luật riêng của xã hội . Ngày mai hơn ngày hôm nay trong xã hội không thể theo quy luật tự nhiên mà muốn như thế thì phải có đông lực đấu tranh bằng nhiều hình thức . Lỗ Tấn tin vào ngày mai có phần mơ hồ .
 

cohonnhien

Thành viên
#14
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p14)

AQ CHÍNH TRUYỆN


I. AQ CHÍNH TRUYỆN LÀ ÐỈNH ÐIỂM SÁNG TẠO TRONG VĂN NGHIỆP LỖ TẤN:

_ AQ chính truyện là một trong 108 danh tác của thế giới. Cho đến nay tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới: tiếng Anh, Nga, Ðức,Bồ Ðào Nha, Tây Ban Nha, Ý, Thụy Ðiển, Miến Ðiện, Việt Nam, Inđônêxia, Triều Tiên, Nhật Bản.

_ AQ chính truyện có tầm khái quát rất rộng lớn: nó thâu tóm, ôm trùm, đã khái quát được thực trạng xã hội Trung Quốc trước, trong và sau cách mạng Tân Hợi (1911).

_ Ðể khái quát một giai đoạn đầy biến động với một trường diện lịch sử rộng lớn này đáng lẻ phải dùng một bộ tiểu thuyết trường thiên. Song, Lỗ Tấn chỉ dùng một truyện vừa trên dưới 50 trang mà đã khái quát được toàn bộ thực trạng xã hội Trung Quốc trước, trong và sau cách mạng Tân Hợi.

_ Về đề tài, AQ chính truyện viết về đề tài lớn.Ðó là đề tài nông dân. Trong văn nghiệp của Lỗ Tấn hầu hết tác phẩm tập trung vào hai đề tài: nông dân và trí thức tiểu tư sản. AQ chính truyện là một tác phẩm nổi bật viết về đề tài nông dân.

_ Chủ đề: AQ chính truyện đã nêu lên một vấn đề trọng đại và bức xúc của lịch sử Trung Quốc lúc bấy giờ: nông dân với cách mạng. Lịch sử Trung Quốc lúc ấy đòi hỏi phải có một cuộc cách mạng. Cách mạng là một sự đổi thay. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, là ngày hội của quần chúng. Thế nhưng những nông dân như AQ lại không được làm cách mạng.

_ Thành tựu nổi bật nhất của AQ chính truyện là đã xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình h là yêu cầu thuộc bản chất mĩ học của phương pháp hiện thực chủ nghĩa.



Trong thư gửi cho nữ văn sĩ Anh Mac-gơ-rit Hakờnex (tác giả: Cô gái thành thị) 4-1888,Ăngghen đã kiến giải về chủ nghĩa hiện thực như sau: Chủ nghĩa hiện thực, theo ý tôi ngoài sự chính xác của các chi tiết ra còn cần phải nói tới việc tái hiện chân thực những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình có mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh điển hình. Tính cách điển hình là sự tổng hòa của nhiều mối quan hệ từ trong hoàn cảnh điển hình. Thế nào là tính cách điển hình? Cũng theo Ăngghen thì: Mỗi nhân vật là một điển hình, nhưng đồng thời cũng là một cá tính hoàn toàn đích xác. Là con người này như ông già Hêghen nói.

Con người này là con người được xác định bởi tính cách, không dễ bị hòa đồng bởi con người khác. Hêghen nói:Mỗi nhân vật là một điển hình. Ðiển hình ở đây có nghĩa là tiêu biểu, đại diện cho một tầng lớp, một giai cấp trong xã hội. Ðây chính là tính chung trong tính cách của nhân vật. Nhưng đồng thời cũng là một các tính hoàn toàn đích xác, là con người này như ông già Hêghen nói. Cá tính hoàn toàn đích xác là cá tính riêng hoàn toàn xác lập. Con người này là một khái niệm mang ý nghĩa triết học cao. Con người này có nghĩa không phải là con người kia để xác định một tính riêng, nét riêng trong tính cách của nhân vật. Tính riêng này không thể hòa trộn, đánh đồng hoặc nhập vào bất cứ tính cách của nhân vật nào khác. Như vậy, theo ý kiến của Ăngghen thì tính cách điển hình là sự kết hợp giữa tính chung và tính riêng.

Khi kiến giải về tính cách điển hình, Bi-ê-lin-xki lại cho rằng: Mỗi nhân vật của nhà văn thật sự có tài năng là một kiểu người, và đối với người đọc mỗi kiểu người là một người lạ đã quen biết. Dựa vào ý kiến này, ta có thể biết thêm tính cách điển hình của nhân vật là sự kết hợp giữa yếu tố lạ và yếu tố quen Ðây cũng chính là phép biện chứng của tính cách điển hình. Quen chính là những biểu hiện của những nét tính cách phổ biến, thường thấy. Lạ là những nét tính cách ít thấy, song có thực (nó khác với những yếu tố kì vĩ, huyền thoại được tạo nên bằng thủ pháp ước lệ hay lí tưởng hóa của chủ nghĩa cổ điển hay chủ nghãi lãng mạn).

Giữa các yếu tố này có sự chuyển hóa cho nhau. Nhân vật AQ trong AQ chính truyện đã có được sự kết hợp.

II. GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT VÀ NỘI DUNG CỦA AQ CHÍNH TRUYỆN:

1. Một bản sơ yếu lí lịch.

_Họ và tên: AQ không có họ, không có tên. AQ chỉ là tên ước định mà tác giả gán cho mà thôi.

_Ngày tháng năm sinh: 0

_Quê quán: 0

_ Nghề nghiệp: 0

Một con số zero to tướng phủ lên lá số tử vi của AQ( Ðặng Thai Mai)

Ðã là con người thì phải có tên. Vậy mà AQ lại không co tên nên chẳng khác gì con vật.Trong khi làng Mùi có hai nha giàu là cụ cố họ Tiền và cụ cố họ Triệu, nhưng AQ chỉ nhận mình là người họ Triệu. Nếu AQ có tâm lý thấy kẻ sang bắt quàng làm họ thì AQ cũng có thể nhận mình là người họ Tiền được chứ sao ?. Song, AQ chỉ nhận mình là người họ Triệu. Ðây là dấu hiệu làm cơ sở để có thể nói rằng AQ vốn là người họ Triệu. Nhưng trong cái xã hội bần cư trung thị vô nhân vấn, phú tại thâm sơn hữu khách tầm (nhà nghèo ở giữa chợ không có người hỏi tới, nhà giàu ở trong rừng sâu lại có khách tìm đến), thì một người cố nông như AQ làm sao được chấp nhận là người họ Triệu của cụ cố họ Triệu giàu có. Tên và họ của AQ bị chính giai cấp thống trị tước đoạt và gạt AQ ra ngoài lề xã hội, đẩy AQ xuống hàng những con vật. Trong bản sơ yếu lý lịch của nhân vật AQ chỉ có cột mục nghề nghiệp: Ai thuê gặt lúa thì gặt lúa, thuê gĩa gạo thì giã gạo, thuê chống thuyền thì chống thuyền. Ở cột mục này, có thể khẳng định được rằng AQ là một nông dân. Nhưng nhân vật AQ lại sống trong tình trạng sinh vô gia cư, tử vô địa táng -tứ cố vô thân, nên có thể khẳng định thầnh phần xã hội của nhân vật AQ là một cố nông đúng với ý nghĩa đích thực của nó.

2. Một tính cách vừa lạ vừa quen:

Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh tạo nên tính cách điển hình của nhân vật. Tính cách của nhân vật là sự tổng hòa những mối quan hệ xã hội trong hoàn cảnh ấy. Hoàn cảnh điển hình trong AQ chính truyện là làng Mùi mà làng Mùi là hình ảnh thu nhỏ lại của nông thôn Trung Quốc hồi ấy. Làng Mùi là một chốn ao tù, nước đọng, bảo thủ, trì trệ. Ở làng Mùi cũng có các giai cấp như trong toàn xã hội Trung Quốc vậy. Giai cấp thống trị ở làng Mùi có cụ cố họ Tiền và cụ cố họ Triệu. Những người cố nông có AQ, cụ Don, Vương râu xồm, vú Ngò. Tầng lớp tăng lữ:có sư nữ ở chùa Tĩnh Tu. Trên cái nền của những mối quan hệ giai cấp ấy, tính cách của AQ đã được bộc lộ. Làng Mùi chính là hoàn cảnh điển hình và tính cách của AQ là tính cách điển hình. Tính cách của AQ là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố lạ và yếu tố quen.

_ Yếu tố quen: AQ là một cố nông như bao nhiêu cố nông khác ở nông thôn Trung Quốc thời này. AQ cũng có những nhu cầu tối thiểu như bất kì con người nào để tồn tại. Ðó là: nhu cầu về ăn, mặc, nhu cầu xây dựng hạnh phúc gia đình. Trong yếu tố quen có yếu tố lạ. Nhân vật AQ cũng có nhu cầu xây dựng hạnh phúc gia đình như mọi người khác. Ðó là nét rất quen. Nhưng động lực của nhu cầu này lại không phải là tình yêu mà là do một quan niệm của lễ giáo phong kiến: bất hiếu hữ tam,vô hậu vi đài (trong 3 điều bất hiếu thì điều bất hiếu lớn nhất là không có con trai nối dõi tông đường).

Phép thắng lợi tinh thần, bệnh tự cao tự đại biểu hiện của tư tưởng giai cấp thống trị ở Trung Quốc lúc này. Phép thắng lợi tinh thần là tạo ra những thắng lợi trong tưởng tượng mà thực chất là thất bại. Người khác đánh AQ, AQ bị thua, AQ cho rằng nó đánh mình chẳng khác gì nó đánh bố nó. Về gia thế của AQ không ai biết, nhưng AQ luôn luôn huyênh hoang: Nhà tao xưa kia có bề có thế bằng mấy mày kia, thứ mày thấm vào đâu. Có thể nói AQ đứng chênh vênh trên miệng hố hiện tại, không có quá khứ hoàng kim cũng không có tương lai xán lạn. Thế nhưng, AQ thường nói về tương lai: Con tớ ngày sau làm nên chẳng bằng năm, bằng mười lũ ấy à, AQ luôn mang trong mình phép thắng lợi tinh thần như là một lá bùa hộ mệnh, như là một thứ vũ khí tùy thân để phản ứng, để chống trả mọi đối thủ trong xã hội.Là một cố nông, vậy mà AQ lại mang tư tưởng của giai cấp thống trị. Ðiều này đã tạo nên nét lạ trong tính cách của AQ. Song, có phải vì thế mà tính cách AQ thiếu tính chân thực, thiếu nhất quán không?. Có người lại còn cho rằng đây là sự gán ghép tùy tiện của Lỗ Tấn. Hoàn toàn không phải như vậy. Tính cách điển hình của AQ là rất chân thực. Sỡ dĩ AQ là cố nông mà lại mang trong mình tư tưởng của giai cấp thống trị là bởi:Tư tưởng thống trị của một thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị (Mác).

Ðối với những người thuộc các tầng lớp trong xã hội, AQ có những phản ứng giống nhau không hề có phân biệt gì. Ðiều này chứng tỏ AQ mơ hồ mất hết cảm quan hiện thực. AQ không say bởi rượu, AQ rất tỉnh nhưng do những phản ứng của AQ ngờ nghệch và không có tính định hướng nên AQ tỉnh là say.

Giai cấp nông dân trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, không hề có một triết gia, một tư tưởng nào cả. Vì vậy, nhân vật AQ về vật chất là 0 ( zero )Sinh vô gia cư, tử vô địa táng về tinh thần, về hệ tư tưởng cũng zero. Không vật chất, không tinh thần làm sao sống được ?. Do đó, AQ phải bám theo tử tưởng của giai cấp thống trị.

AQ rơi vào khoảng trống của tinh thần và của tư tưởng. Nên AQ đã phải vay mượn đã phải bám víu lấy tư tưởng của giai cấp thống trị để tồn tại. Rõ ràng sự tồn tại của AQ trong tác phẩm làphép thắng lợi tinh thần là hiện thân của bệnh tự cao, tự đại của giai cấp thống trị.

Tính cách điển hình của nhân vật AQ không chỉ là sự kết hợp giữa tính chung và tính riêng, yếu tố lạ và yếu tố quen mà còn là sự kết hợp giữa cái bi và cái hài.

*Bi: cái bi trong tính cách của AQ được luận giải trên cơ sở vận dụng ý kiến của Ăngghen :Sự xung đột có tính bi kịch giữa cái định lí tất yếu về phương diện lịch sử và việc không thể thực hiện được định lí đó về phương diện thực tiễn

AQ muốn thắng nhưng không được thắng (muốn thắng là phương diện lịch sử, không được thắng là phương diện thực tiễn)

AQ muốn yêu mà không được yêu

AQ muốn làm cách mạng mà không được làm cách mạng.

* Hài: Theo cách giới thuyết của Tsecnưsépxki-nhà văn, nhà tư tưởng dân chủ của nước Nga thì: Cái hài là sự trống rỗng và sự vô nghĩa bên trong được che đậy bằng một cái vỏ huênh hoang tự cho rằng có nội dung và có ý nghĩa thực sự. Cái hài còn được hiểu theo nghĩa mà Mác đã nêu ra trong tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hê-ghen: Giai đoạn cuối cùng của một hình thái lịch sử chính là tấn hài kịch của nó. Phép thắng lợi tinh thần của nhân vật AQ cùng với những biểu hiện tư tưởng tự cao tự đại của giai cấp thống trị mà nhân vật AQ đã vơ vào mình chính là nét nổi bật về tinh thần của giai đoạn cuối cùng hình thái lịch sử xã hội phong kiến Trung Quốc ở triều Mãn Thanh
III. BÓNG DÁNG CÁCH MẠNG TÂN HỢI TRONG AQ CHÍNH TRUYỆN:

Trong AQ chính truyện, có bóng dáng của cuộc cách mạng Tân Hợi. Lỗ Tấn đã khắc họa bóng dáng này bằng lối phác họa, chấm phá, nhưng lại đầy ấn tượng. Ðã gọi là cách mạng thì phải tạo được những biến đổi lớn. Cách mạng muốn thành công thì phải dựa vào quần chúng khi quần chúng có vai trò quyết định thắng lợi của cách mạng. Vậy mà quần chúng như AQ lại không được làm cách mạng. Cách mạng Tân Hợi đến với làng Mùi chỉ tạo nên được một sự xao động giống như sự xao động của mặt nước ao hồ khi có một viên sỏi nhỏ ném xuống để rồi nó trở lại bằng lặng như xưa. Với những nét phác họa tinh tế, Lỗ Tấn đã thể hiện một thái độ phê phán đối với tính chất không triệt để của cuộc cách mạng Tân Hợi 1911.

LỄ CẦU PHÚC


Truyện ngắn Lễ cầu phúc lần đầu tiên được in trên Ðông phương tạp chí số 5/1924. Ðây là một truyện ngắn trữ tình. Nhân vật trung tâm của Lễ cầu phúc là thím Tường Lâm. Ðề tài của thiên truyện là người phụ nữ nông dân Trung Quốc dưới chế độ xã hội cũ. Vấn đề nổi lên của tác phẩm là Số phận bi thảm của người phụ nữ nông dân Trung Quốc dưới chế độ xã hội cũ.
 

cohonnhien

Thành viên
#15
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p15)

Lễ cầu phúc có kết cấu đầu và cuối tương ứng với nhau. Với kết cấu này, tác giả đã làm nổi bật nghịch cảnh bật công trong một xã hội đầy rẫy ngang trái.Nếu như ở bài Tự kinh phó Phụng Thiên vịnh hoài ngũ bách tự, thi hào Ðỗ Phủ đã tạo dựng hình ảnh đối lập để làm bật nổi nghịch cảnh bất công của xã hội thời Ðường:

Cửa son rượu thịt ôi

Ngoài đường xương chết buốt thì ở truyện ngắn Lễ cầu phúc, Lỗ Tấn đã tạo dựng lối kết cấu đầu và cuối tương ứng với nhau để làm bật nổi nghịch cảnh của xã hội. Ðây là nghịch cảnh kẻ ăn không hết người lần không ra- kẻ thì mớ bảy mớ ba, người thì áo rách như là áo tơi. Mở đầu và kết thúc tác phẩm Lễ cầu phúc đều là cảnh Lỗ Trấn tưng bừng náo nhiệt, rộn ràng trong không khí chuẩn bị đón lễ cầu phúc, đón năm mới. Trong khi Lỗ Trấn tưng bừng náo nhiệt chuẩn bị đón lễ cầu phúc thì nhân vật thím Tường Lâm phải sống trong cảnh ăn xin và thím đã chết giữa cảnh đó. Trong khi mọi người sống sung sướng thì htím Tường Lâm lại phải sống trong đau khổ. Trong khi mọi người được sống sum vầy sung túc thì thím Tường Lâm đã chết đói trong nỗi cô đơn. Ðó chính là nghịch cảnh của xã hội mà Lỗ Tấn đã tái hiện khá chân thực, khiến cho truyện ngắn này vưa có giá trị hiện thực cao, vưa có giá trị nhân đạo sâu sắc. Lối kết cấu đầu cuối tương ứng của truyện còn làm bật nổi sự hắt hủi, ruồng rẫy của mọi người ở Lỗ Trấn đối với thím Tường Lâm. Bằng thái độ của họ, họ như muốn xóa tên thím Tường Lâm trong cuốn sổ hộ tịch của Lỗ Trấn. Họ khinh bỉ thím và muốn hắt thím xuống đáy sâu của vực thẳm cuộc đời. Họ nhìn nhận thím bằng con mắt khinh bỉ. Tác giả đã dùng một đoạn văn trữ tình ngoại đề để làm bật nổi điều đó: Một đời người không nơi nương tựa như một thứ đồ chơi cũ kỹ, chơi lâu ngày chán người ta vứt vào đống rác. Bấy lâu nay vẫn lăn lóc ở đấy khiến cho những kẻ sống sung sướng phải ngạc nhiên sao thím ta lại cố bám mãi vào cuộc đơi làm chi . Yếu tố thời gian nghệ thuật cũng góp phần khắc đậm ý này. Lần cuối cùng tác giả gặp thím Tường Lâm là vào một buổi chiều cuối năm tuyệt xuống nhiều. Giá như đó là thời gian buổi sáng hay buổi trưa thì còn có người bố thí cho thím. Nhưng đây đã là lúc trời gần tối mà trong cái giỏ của thím lại hoàn toàn không có một thứ gì, ngoài một chiếc bát mẻ. Chi tiết này chứng tỏ là suốt ngày hôm ấy- một trong những ngày cuối năm cũ chuần bị bước sang năm mới (và có thể là cả ngày hôm trước ) không có một người nào ở Lỗ Trấn cho thím một hạt gạo hay một bát cơm.

Khi xây dựng nhân vật thím Tường Lâm , tác giả đã kết hợp khắc họa trực tiếp với khắc họa gián tiếp để làm nổi bật cuộc đời ba chìm bảy nổi chín lênh đênh của nhân vật thím Tường Lâm . Có 3 lần nhà văn miêu tả thím Tường Lâm một cách trực tiếp. Nhưng trình tự của 3 lần này lại đảo lộn. Vào truyện, tác giả miêu tả việc gặp thím Tường Lâm lần thứ 3 và cũng là lần cuối cùng. Tiếp đến,nhà văn tái hiện việc gặp thím Tường Lâm lần đầu. Ðây cũng chính là lần đầu tiên nhân vật thím Tường Lâm đến làm thuê cho gia đình Lỗ Tư. Ðó là vào một buổi chiều mùa đông. Sau đó nhà văn mới tái hiện việc gặp nhân vật thím Tường Lâm lần thứ hai và cũng vhính là lần thứ hai thím Tường Lâm đến làm thuê cho nhà Lỗ Tư. Ðó là vào một buổi chiều mùa thu. Lần thứ ba, lần cuối cùng tác giả gặp thím Tường Lâm thuộc thì hiện tại, được miêu tả ở đầu truyện. Lần thứ nhất và lần thứ hai tác giả gặp thím Tường Lâm thuộc thì quá khứ lại được miêu tả ở phần sau. Sự đảo lộn về trình tự thời gian này là dấu hiệu của thủ pháp đồng hiện. Thủ pháp đồng hiện về thời gian đã rút ngắn được khoảng cách thời gian để làm nổi bật sự tàn tạ nhanh chóng về thể xác của nhân vật thím Tường Lâm.Ngoại hình của nhân vật thím Tường Lâm được tác giả miêu tả : Mái tóc hoa râm 5 năm trước giờ đây đã bạc trắng trông không còn ra dáng con người trên 40 tuổi nữa, khuôn mặt hốc hác, nước da vàng xạm.Thân hình của thím như là một cái xác không hồn mà sự sống chỉ còn vương lại, sót lại, lưu lại ở đôi tròng mắt đưa đi đưa lại. Nhà văn khắc họa nhân vật thím Tường Lâm một cách gián tiếp qua lời kể của nhân vật bà Vệ. Tác giả đã để cho nhân vật bà Vệ kể về hoàn cảnh của thím Tường Lâm. Lối khắc họa gián tiếp này đã khiến cho hình ảnh của nhân vật thím Tường Lâm hiện lên trong tính khách quan, đồng thời làm nổi bật những đau khổ của quãng đời nhân vật thím Tường Lâm bị người mẹ chồng trước gã bán cho nhân vật anh Sáu ở Hạ Gia Uïc. Lỗ Tấn đã kết hợp miêu tả ngoại hình với khắc họa nội tâm của nhân vật. Có 3 lần nhà văn miêu tả nhân vật thím Tường Lâm thì cả 3 lần nhà văn đều miêu tả ngoại hình của thím. Nhà văn đã dùng lối tăng cấp để làm bật nổi sự tàn tạ về thân thể của thím: lần đầu thím Tường Lâm đến làm thuê cho nhà Lỗ Tư thì trên đầu thím có một vành khăn tang và đôi gò má của thím còn hồng hào, lần thứ hai thím đến làm thuê cho nhà Lỗ Tư, trên đầu thím cũng có một vành khăn tang, nhưng gò má của thím không còn hồng hào như trước nữa, lần thứ ba tác giả gặp thím Tường Lâm thì khuôn mặt thím đã trở nên hốc hác, nước da vàng xạm và trông thím như một cái tượng bằng gỗ. Hình ảnh vành khăn tang trên đầu thím Tường Lâm xuất hiện tới hai lần đã gây được ấn tượng sâu đậm về cuộc đời đầy đau thương của thím. Nó là hiện thân của sự bất hạnh chồng chất nối tiếp đè lên đầu, đè lên kiếp sống của nhân vật thím Tường Lâm.

Trong truyện nhiều lần nhà văn đã nhắc đi nhắc lại câu Người ta vẫn gọi thím là thím Tường Lâm có ý nghĩa như là một điệp khúc để làm nổi bật kiếp sống mòn mỏi, bế tắc trong những nỗi đau khổ đến ê chề của thím. Thím Tường Lâm không có họ mà chỉ có tên bởi trong xã hội ấy thì Nữ nhân ngoại tộc, nên thím làm gì có họ và cũng chẳng có ai họ hàng với thím. Thím sống cô độc và chết cũng cô độc. Nỗi cô độc ấy không phải do thím gây ra mà chính là do xã hội ấy đã đẩy thím vào cảnh sống và chết trong nỗi cô độc. Tác giả còn tạo dựng những hình ảnh tượng trưng hàm chưa nhiều ý nghĩa thâm thúy. Hình ảnh con sói ăn thịt bé Mao vừa là thật nhưng cũng vừa là hình ảnh tượng trưng. Phải chăng đây còn là con sói mang cả bản chất của chế độ xã hội. Hình ảnh vành khăn tang bám riết lấy cuộc đời của thím như là hiện thân của một định mệnh. Ở truyện ngắn đầu tay Nhật ký người điên, Lỗ Tấn cũng đã khắc họa hình ảnh con chó của nhà học Triệu mà con chó vốn là con sói được thuần dưỡng. Trong AQ chính truyện, nhà văn để cho nhân vật AQ trên đường ra pháp trường đã nhớ lại 4 năm về trước suýt bị con sói ăn thịt. Hình ảnh con sói trở đi, trở lại nhiều lần trong truyện ngắn của Lỗ Tấn, hàm chứa một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà văn. Chế độ xã hội thời ấy có biết bao nhiêu là con sói ăn thịt người. Không chỉ sói ăn thịt người mà còn có người ăn thịt người trong truyện ngắn Nhật ký người điên và có cả việc người giết người để lấy máu mà bán như trong truyệnThuốc. Bằng hình ảnh này, Lỗ Tấn còn diễn tả được mối quan hệ giữa người với người trong xã hội Trung Quốc thời ấy là Người là chó sói của người. Những người lương thiện như người điên trong Nhật ký người điên hay thím Tường Lâm trong Lễ cầu phúc đều phải sống trong cảnh trần trụi giữa bầy sói. Tác giả rất chú ý trong việc tạo dựng thời gian nghệ thuật. Lần thứ 3 gặp thím Tường Lâm là một buồn chiều mùa đông tuyết xuống nhiều. Lần đầu thím Tường Lâm đến làm thuê cho nhà Lỗ Tư cũng vào một buổi chiều mùa đông. Lần thứ 2 thím Tường Lâm đến làm thuê cho nhà Lỗ Tư là vào một buổi chiều mùa thu. Yếu tố thời gian ấy đều gợi được sự lạnh lẽo, tàn tạ, ảm đạm và thê lương. Nhân vật bé Mao- con của thím Tường Lâm - lại bị sói ăn thịt vào mùa xuân. Yếu tố thời gian mùa xuân bé Mao bị sói ăn thịt đã gợi được cảm giác về sự rối loạn, không theo một quy luật nào như chính sự rối lọan của xã hội Trung Quốc thời ấy biến con người thành nạn nhân, khiến cho con người không bao giờ lường trước được những tai biến bất ngờ. Nhà vănkhong đẻ cho bé Mao chết vì đá đè, vì tuyết vùi hay vì nước của băng tan vào giữa tiết xuân cuốn trôi đi mà để bé Moa chết vì sói ăn thịt. Thông lệ thì sois thường về làng vào những ngày mùa đông (như chính lời kể của thím Tường Lâm). Nhưng ở đây sói lại về làng vào giữa tiết xuân. Nói đến mùa xuân là nói đến sự ấm áp tốt tươi, gắn với niềm vui và hạnh phúc của con người. Theo sự chu chuyển của thời gian, hết mùa đông thì sẽ đến mùa xuân. Hết mùa đông cũng có nghĩa là hết năm cũ để chuyển sang mùa xuân- mở đầu cho một năm mới. Năm cũ hết thì tết sẽ đến. Tết đến xuân sang với mọi nhà bởi mùa xuân là của vũ trụ. Nhưng trong Lễ cầu phúc, tết đến xuân sang chỉ có đối với những nhà giàu ở Lỗ Trấn, còn thím Tường Lâm thì hoàn toàn không có tết và cũng không có mùa xuân. Một ngày màu xuân đứa con trai duy nhất của thím bị sói ăn thịt và vào một ngày cuối đông chuẩn bị sang xuân, thím Tường Lâm lại phải chết đói. Ðó là những mùa xuân mà không có xuân trong những chuỗi ngày bất hạnh của kiếp đời thím Tường Lâm. Bé Mao - giọt máu duy nhất của thím, nguồn thương yêu duy nhất của thím, niềm hy vọng duy nhất của thím đã bị sói ăn thịt. Cái chết cúa bé Mao đã trở thành vết thương lòng không bao giờ khỏi của thím Tường Lâm. Nhân vật chính Tường Lâm sống một cuộc đời đầy bi kịch. Cái bi trong nhân vật này được thể hiện ở cả hai mặt : Mặt thứ nhất của cái bi trong con người thím TưòngLâm mang ý nghĩa như điều mà Mác đaù chỉ ra : chừng nào còn sự ngu dốt thì chừng ấy tôi e rằng nhân loại còn phải chứng kiến nhiều tấn bi kịch- ngu dốt đẻ ra bi kịch, mặt khác cái bi trong nhân vật thím Tường Lâm còn được hiểu theo nghĩa của Anghen: Sự xung đột của tính bi kịch giữa cái định lý tất yếu về phương diện lịch sử và việc không thể thực hiên được định lý đó về phương diện thực tiễn.(Thư gửi Latxan, ngày 18-5-1859). Nghe u Liễu bảo phải mang tiền đến cúng ở miếu Thành Hoàng cho thoat kiếp hai chồng, thím Tường Lâm đã nnghe theo

Và đã dốc hết cả những đồng tiền cuối cùng của mình để làm việc đó. Nhưng cuộc đời của thím Tường Lâm đâu có thay đổi. Thím Tường Lâm đẫ phải chịu đựng hết nỗi đau khổ này đén nỗi đau khổ khác. Cuộc đời của thím hoàn toàn bị đày đọa trong sự cương tỏa của bao nỗi khổ đau. Hai lần lấu chồng, thím Tường Lâm không hề tìm thấy hạnh phúc. Người chông trước ít hơn thím đến 10 tuổi. Thím là nạn nhân của chế độ tảo hôn. Mẹ chông trước của thím 30 tuổi, trong khi thím đã 26-27 tuổi. Thím lấy anh Sáu ở Hạ Gia Uïclà kết quả của một sự gả bán hết sức giã man. Mẹ chồng trước của thím đã bán thím cho anh Sáu với giá 80 quan tiền. Thím bị xem làd một con vật không hơn khôn g kém. Cuộc gả bán này đã đẩy thím vào bi kịch. Thím đã đập đầu vào hương án để mong tìm phương giải thoát bằng cái chết. Nhưng thím đã không được chết. Lần thứ 3 cũng là lần cuối cùng, thím Tường Lâm gặp tác giả và hỏi: Con người ta chết roòi thì còn có linh hồn nữa không , ông ? . Câu hỏi của thím Tường Lâm đã thể hiện một cách khá sâu sắc kịch tính nội tâm trong lòng thím. Kịch tính nội tâm, đó là sự giằng sé níu kéo, dày vò, dằn vặt giữa muốn sống và không muốn sống hay nói cách khác muốn chết và không muốn chết. Nếu chết có linh hồn thì thím muốn chết được gặp lại đứa con thân yêu của thím ở chốn âm ty, nhưng đồng thời thím lại không muốn chết bởi theo lời của u Liễu, thì lấy hai người chồng thì khi chết xuống âm phủ, hai người chồng sẽ thưa với Diêm vương và Diêm vương sẽ cưa thím làm đôi, khiến cho thím rất sợ hãi. Nỗi thương tiếc bé Mao không bao giờ nguôi trong lòng thím. Ðiều này được thể hiện khá rõ trong nhiều lần thím kể lại việc bé Mao bị sói ăn thịt và bao giờ thím cũng mở đầu băng câu: Con thật ngu đần quá hay Tôi thật ngu đần quá. Câu đó được nhắc đi nhắc lại như chính sự dày vò của nỗi đau nỗi thương tiếc không bao giờ giảm bới trong lòng thím. Câu hỏi của thím được đặt ra ở những giây phuts cuối cùng của cuộc đời thím: Con người ta chết rồi thì còn có linh hồn nữa không, ông?. Ðiều này chứng tỏ nỗi dày vò đau đớn trong lòng thím cứ bám riết lấy thím ngay cả ở phút cuối cùng của cuộc đời và nó sẽ theo thím xuống đến âm phủ.

Ở nhân vật thím Tường Lâm có sự dồn tụ, quy tụ bi kịch số phận của bao nhiêu người phụ nữ Trung Quốc dưới chế độ xã hội cũ. Cuộc đời của thím Tường Lâm là một tấn bi kịch. Lỗ Tấn đã thể hiện mối đồng cảm, thông cảm sâu sắc đối với cuộc đời bi thảm của thím Tường Lâm. Mỗi chữ mỗi câu trong truyện ngắn này đều mang nhịp đập với một tần số xúc động rất cao của một trái tim hừng hực nhiệt tình thương người, thông cảm với những nỗi thống khổ của bao nhiêu phụ nữ Trung Quốc dưới chế độ xã hội cũ.
 

cohonnhien

Thành viên
#16
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p16)

CÁCH MẠNG VĂN HÓA ẢNH HƯỞNG THẾ NÀO ĐẾN LỊCH SỬ TRUNG QUỐC ?

Cách mạng Văn hóa Vô sản (1966-1976) được coi là một trong những giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Trung Quốc hiện đại. Với hoài bão siết chặt quyền lực do Chủ tịch Mao Trạch Đông khởi xướng, Cách mạng Văn hoá đã nhanh chóng trở thành một cuộc hỗn loạn. Chủ trương của cuộc Cách mạng này là nhằm tạo ra một xã hội cộng sản tuyệt đối, nhưng một số người thực hiện đã bị mờ mắt bởi những ham muốn quyền lực cá nhân. Với những hậu quả cũng như tàn dư của nó gây ra đối với lịch sử Trung Quốc, các nhà sử học cho rằng giai đoạn 1966-1976 là một thập kỷ đầy biến động đã kéo lùi sự phát triển của đất nước này.

Đứng đầu cuộc cách mạng đẫm máu này là Bè lũ bốn tên, hay còn gọi là Tứ Nhân Bang, gồm có Diêu Văn Nguyên, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn. Nắm quyền lực cao trong tay, Bè lũ bốn tên đã khuynh đảo cả đất nước Trung Quốc trong suốt thời gian dài.


Diêu Văn Nguyên

- Diêu Văn Nguyên (1931-2005) đóng vai trò then chốt trong Cách mạng văn hoá. Xuất thân là một nhà báo tại Thượng Hải, sự nghiệp chính trị của Diêu Văn Nguyên lên như diều gặp gió sau khi ông ta liên kết với phu nhân của Mao Trạch Đông là Giang Thanh cùng Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều.

Báo chí Trung Quốc từng mệnh danh Diêu Văn Nguyên là "tên sát thủ bằng cây bút" sau khi ông ta viết một bài báo nổi tiếng báo hiệu sự bắt đầu của cuộc Cách mạng văn hoá năm 1966. Hàng trăm nghìn người đã bị đày ải hoặc dồn đến con đường tự sát, chịu sự hành hạ về thể xác và tinh thần của các Hồng vệ binh, công cụ đắc lực của "Bè lũ bốn tên".

Bị bắt năm 1976, Diêu Văn Nguyên chịu án 20 năm tù và được thả năm 1996. Sau đó ông ta sống lặng lẽ những năm tháng cuối đời tại Bắc Kinh.

Trương Xuân Kiều

- Trương Xuân Kiều (1917 – 2005) bắt đầu sự nghiệp viết văn vào thập niên 1930 tại Thượng Hải. Đến năm 1938, Kiều gia nhập Đảng Cộng sản Trung Hoa. Cùng với sự ra đời của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Trương Xuân Kiều trở thành một nhà báo lỗi lạc của tờ Nhật Báo Tự do (Jiefang Ribao).

Gặp gỡ và kết thân với Giang Thanh, Trương Xuân Kiều đóng góp không nhỏ cho Cách mạng Văn hoá. Trương Xuân Kiều đã từng lên tới chức bí thư Thượng Hải năm 1966 khi Mao tung ra chiến dịch chống tàn dư tư sản.

Trương Xuân Kiều bị Toà án Nhân dân Tối cao Trung Quốc xử tử hình tháng 1/1981, nhưng án được hoãn thi hành 2 năm và sau đó được giảm xuống còn chung thân năm 1983. Án này tiếp tục được hạ xuống còn 18 năm. Năm 1998, ông ta được phóng thích vì lý do sức khoẻ.

Vương Hồng Văn

- Vương Hồng Văn (1936-1992) là thành viên trẻ tuổi nhất của Tứ nhân bang. Đầu thập niên 1950, Vương Hồng Văn tham gia vào cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc - Triều Tiên. Sau khi chiến tranh kết thúc, Vương Hồng Văn trở thành đội trưởng đội an ninh của một xí nghiệp. Tại đây, hắn đã gặp Trương Xuân Kiều và tham gia vào Hồng Vệ binh Trung hoa.


Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn đã biến Thượng Hải thành một thành trì của chủ nghĩa quá khích. Hàng trăm nghìn Hồng vệ binh dưới sự chỉ đạo của họ đã đập phá nhà cửa, công sở, chùa chiền, di sản văn hóa. Họ cũng tra tấn, nhục mạ và trực tiếp giết nhiều cán bộ đảng, trí thức bị coi là 'tư sản, phong kiến' hoặc 'tạo phản'. Năm 1969, Vương Hồng Văn được bầu cử vào Uỷ ban Trung ương Đảng. Vương Hồng Văn bị bắt cùng với 3 tên còn lại trong Tứ nhân bang vào tháng 10/1976 và bị xử tử hình, nhưng sau được giảm xuống án tù chung thân. Vương Hồng Văn qua đời vì bệnh ung thư tại một bệnh viện ở Bắc Kinh năm 1992.

Giang Thanh

- Nhân vật nổi tiếng nhất trong nhóm này là Giang Thanh, vợ thứ ba của Mao Trạch Đông. Giang Thanh (1914-1991) tên thật là Lý Thục Mông nhưng còn được biết đến bằng hai tên là Lý Tiến và Lý Vân Hạc. Sau khi theo học tại Đại học Thanh Đảo, Giang Thanh trở thành diễn viên sân khấu và điện ảnh tại Thượng Hải với nghệ danh Lam Bình.


Năm 1933, Giang Thanh gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến năm 1939, bà gặp Mao Trạch Đông ở Diên An. Sau năm 1949, Giang Thanh làm việc tại Bộ Văn hoá của Trung Quốc. Với tham vọng to lớn, Giang Thanh nắm quyền lực tối trọng và gây rất nhiều sóng gió cho nền chính trị Trung Quốc trong suốt thời kỳ Cách mạnh Văn hoá.

Cho dù được thăng tiến lên cao trong cuộc Cách mạng Văn hóa - một thập kỷ đầy rẫy biến động và những hành động cực tả - cả bốn tên đều hiểu rõ rằng uy quyền của họ phụ thuộc vào Mao. Vì thế khi Mao Trạch Đông qua đời đầu tháng 9 năm 1976, nhận thấy tương lai chính trị có thể chao đảo, bè lũ bốn tên dường như có ý định tiếm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng Hoa Quốc Phong, người được chọn kế nhiệm chức vụ của Mao Trạch Đông, đã ngăn chặn âm mưu đảo chính bằng cách cho bắt cả 4 người của nhóm.

Ngày 6/10/1976, các thành viên của "Bè lũ bốn tên" bị bắt, khi đó họ là một nhóm cấp tiến đã có ảnh hưởng vô cùng rộng lớn ở Trung Quốc trong cả một thập kỷ, kể từ khi Cách mạng Văn hóa bắt đầu năm 1966. Họ bị kết tội gây bạo động cực đoan trong giai đoạn từ 1966-1976. Trên thực tế, Tứ Nhân Bang đã trực tiếp gây ra cái chết của hàng nghìn người Trung Quốc trong các đợt bạo động hưởng ứng phong trào Cách mạng Văn hóa.

Đến nay, vừa tròn 4 thập kỷ đã trôi qua nhưng Cách mạng Văn hoá và sự hoành hành của Bè lũ bốn tên vẫn luôn là một cơn ác mộng với toàn thể nhân dân đất nước Trung Quốc.
 

cohonnhien

Thành viên
#17
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p17)

AI ĐƯỢC COI LÀ "CHA ĐẺ CỦA SỬ HỌC TRUNG QUỐC" ?
Tư Mã Thiên, tên tự là Tử Trường, sinh năm 145 trc.CN ở Long Môn nay là huyện Hàn Thành, tỉnh Thiểm Tây. Tổ tiên của ông từ đời Chu đã làm Thái sử. Đến đời cha ông là Tư Mã Đàm làm Thái sử lệnh của nhà Hán. Đàm là một người học rộng, rất thích học thuyết Lão Trang.

Chức sử quan ngoài việc chép sử còn coi thiên văn, soạn lịch, bói toán. “Nghề viết văn, viết sử, xem sao, xem lịch cũng gần với thầy bói, thầy cúng. Chúa thượng vẫn đùa bỡn như con hát, còn thế tục coi thường”. Tuy vậy, Tư Mã Đàm vẫn thấy cái nghề của mình cao quý, vì ông biết nó có tác dụng to lớn đối với sự thịnh suy, hưng vong của một nước. Trong các sử quan đời trước, cũng có những người dám hy sinh đời mình để viết sự thật, dù sự thật ấy làm vua chúa tức giận.

Tư Mã Thiên sống thời thơ ấu ở Long Môn, cày ruộng, chăn cừu, làm bạn với những người nông dân bình thường, và học các sách sử cổ. Lên mười tuổi, ông đã học Tả Truyện, Quốc Ngữ, Thế bản và thuộc lòng hầu hết những bài văn nổi tiếng của thời trước.

Tư Mã Đàm hết sức chú ý đến việc giáo dục con. Năm Tư Mã Thiên hai mươi tuổi, ông bảo con lên đường đi du lịch để xem tận mắt những nơi sau này Tư Mã Thiên sẽ phải viết sử. Chuyến đi ấy kéo dài ba năm, sau đó, ông còn đi những chuyến khác cũng để tìm tài liệu. Thời xưa, việc đi lại rất khó khăn, trên đường giặc cướp rất nhiều, những nhà du thuyết có bôn ba từ nước này sang nước khác thì cũng chỉ ở trong một địa bàn rất hẹp, chứ chưa có ai vì mục đích khoa học mà lại đi xa như vậy. Có thể nói trừ miền Quảng Đông, Quảng Tây, còn từ Vân Nam, Tứ Xuyên cho đến Vạn Lý Trường Thành, ở đâu cũng có vết chân của ông. Ông là một trong những khách du lịch nổi tiếng nhất thời Trung Cổ.



Những chuyến đi đã cung cấp cho Tư Mã Thiên vô số tài liệu, truyền thuyết, giúp ông thấy được thái độ của nhân dân đối với những nhân vật, những biến cố lịch sử và cho ông rất nhiều chi tiết điển hình về đời sống từng người thủa hàn vi. Chính những cuộc “đi chơi” như vậy đã làm cho Tư Mã Thiên thấy cái bao la hùng vĩ của đất nước, có được một ý thức sâu sắc về sự vĩ đại của tổ quốc. Tất cả những vốn quý đó hình thành nên sử gia vĩ đại của cả dân tộc sau này. Mã Tồn một văn sĩ đời sau nói: “Muốn học cái văn của Tư Mã Tử Trường thì trước tiên phải học cái chơi của Tử Trường”. Câu nói đó không phải là quá đáng.

Cha ông mất (108 trc.CN), ông thay cha làm thái sử lệnh và chuẩn bị viết bộ Sử ký. Ông thực hiện cái hoài bão lớn nhất của người cha, đồng thời là điều mong ước duy nhất của mình. Từ năm 106 trc.CN, ông không giao tiếp với khách khứa, bỏ cả việc nhà, ngày đêm miệt mài biên chép. Bảy năm sau chỉ vì ông cất lời bênh vực một danh tướng mà bị vua xử nhục hình. Con người ngang tàng, hai mươi ba tuổi đầu đi khắp Trung Hoa rộng lớn, nhà học giả lớn nhất của thời đại, con người ôm cái hoài bão làm Chu Công, Khổng Tử, cuối cùng bị khép vào tội “coi thường nhà vua” và bị thiến.



Cái ấn tượng nhục nhã, cô độc theo ông đến khi chết. Mỗi khi nghĩ đến cái nhục hình, mồ hôi vẫn cứ đầm lưng ướt áo! Nhưng ông không vì thế mà chán nản. Trái lại, ông càng tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống. Ông thấy rõ hình phạt đó là một thử thách đối với những “người trác việc phi thường”. Ông càng thấy cần phải viết “cho hả điều căm giận”. Và chính cái hình phạt nhục nhã ấy đã làm cho ông hiểu rõ mặt trái của xã hội phong kiến và dũng cảm đứng về phía nhân dân. Ông trở thành sử gia vĩ đại của một dân tộc vĩ đại.

Cuốn Sử ký trước kia là ý nghĩa của đời ông, bây giờ còn là nơi ông giải bày nổi lòng uất ức. Càng cảm thấy nhục nhã, ông càng thiết tha với công việc, đem cả tâm huyết gửi vào tác phẩm vĩ đại, hy vọng rằng dù mình tàn phế, bị ô nhục, nhưng quyển sách kia sẽ thay mình đến với cuộc đời rộng lớn.

Hiện nay người ta vẫn chưa biết chính xác ông mất vào năm nào. Người ta chỉ biết ông viết bức thư trả lời cho Nhâm An năm ông 53 tuổi, sau đó không còn những tài liệu gì về ông. Theo Vương Quốc Duy trong Thái sử công hành niên khảo có lẽ ông mất năm 60 tuổi ( 86 trc.CN) cùng một năm với Hán Vũ Đế.
AI ĐƯỢC COI LÀ " ÔNG TỔ CỦA BINH PHÁP THẾ GIỚI' ?
Tài năng kiệt xuất của ông không được miêu tả rõ ràng trong sử sách, cũng chẳng có cơ sở để tra cứu về giai đoạn cuối đời ông nhưng dù ở Trung Quốc hay ở bất kỳ nơi nào khác, người ta đều công nhận ông chính là “Ông tổ của binh pháp thế giới”.


Tôn Vũ (Tôn Tử), tự là Trường Khanh, quê ở Lạc An, nước Tề (nay thuộc Huệ Dân – Sơn Đông), sống vào cuối thời Xuân Thu. Tổ tiên của ông nguyên là công tử Trần Hoàn ở nước Trần. Năm 672 tr.CN, Trần Hoàn phải chạy loạn đến nước Tề và đổi tên là Điền Hoàn. Con cháu đời thứ năm của Điền Hoàn là Điền Thư, do lập được chiến công khi đánh nước Lữ nên vua nước Tề là Tề Cảnh Công đem vùng đất Lạc An phong thưởng cho ông làm trang ấp, cho mang họ Tôn. Vì vậy, Điền Thư còn được gọi là Tôn Thư. Tôn Thư có tài thao lược về quân sự, ông chính là ông nội của Tôn Vũ.

Khi nước Tề xảy ra nội loạn, Tôn Vũ đành lìa bỏ quê hương, lưu lạc đến các vùng của nước Ngô (nay thuộc Giang Tô, An Huy, Triết Giang). Lúc đầu đến nước này, Tôn Vũ ở ẩn, làm ruộng, tự nuôi sống bản thân. Năm 512 tr.CN, nhờ viên đại thần Ngũ Tử Tư tiến cử, ông được vua Ngô là Hạp Lư triệu vào chầu. Tôn Vũ liền đem cuốn sách “Tôn Tử binh pháp” do ông bỏ công sức nhiều năm soạn thảo dâng lên vua Ngô. Sau khi xem cuốn sách đó, vua Ngô tỏ ra rất tâm đắc, ngay lập tức phong ông làm tướng, giao cho rèn tập 180 cung nữ, nhằm thử thách tài năng của ông. Nhân cơ hội đó, Tôn Vũ liền cho diễn tích “Cung nữ nhà Ngô chém Mỵ Cơ” mà mọi người đều biết.

Tài năng kiệt xuất của Tôn Vũ tuy không được miêu tả rõ ràng trong sử sách, cũng chẳng có cơ sở để tra cứu giai đoạn cuối đời nhưng tác phẩm bất hủ “Tôn Tử binh pháp” của ông gồm 13 thiên lại được lưu truyền một cách sâu rộng và hoàn chỉnh. Tôn Vũ được lịch sử xem là “Ông tổ binh pháp”. Dù ở Trung Quốc hay ở bất kỳ đâu, người ta đều công nhận “Tôn Tử binh pháp” là tác phẩm nổi tiếng lâu đời về lĩnh vực quân sự trên thế giới.



Đến nay, “Tôn Tử binh pháp” được dịch ra 29 ngôn ngữ, các ấn phẩm bổ sung mở rộng lên tới hơn 700 bản. Thế kỷ XVIII, nó thâm nhập vào Châu Âu, ngay lập tức gây ra chấn động đối với giới quân sự phương Tây. Nhà lý luận quân sự nổi tiếng người Anh, người đặt nền móng lý luận ''đại chiến lược'' Lydern Hatill không chỉ tự mình dịch toàn bộ nguyên bản cuốn "Tôn Tử binh pháp" ra tiếng Anh mà ông còn viết thêm một quyển “Luận chiến lược'' để dẫn giải và tường thuật lại. Trong tác phẩm này ông giải nghĩa rất nhiều quan điểm tìm thấy qua nguyên bản "Tôn Tử binh pháp" từ hơn 2.500 năm trước.

Trong bộ sử ký của mình, Tư Mã Thiên có viết về tài năng quân sự của Tôn Vũ như sau: “Tôn Vũ phía tây đại phá nước Sở mạnh, phía Đông dẹp yên Tề, Tần uy danh lừng lẫy khắp chư hầu, làm tướng như thế thật khó ai so bì”. Quả thật, trong 30 năm sự nghiệp quân sự của mình, Tôn Vũ đã lập nhiều chiến công hiển hách và luôn xứng đáng với những lời tôn vinh trong sử sách. Tuy nhiên, có một vấn đề luôn gây ra sự tranh cãi kịch liệt từ trước đến nay đó là: rốt cuộc Tôn Vũ đã thân chinh chỉ huy bao nhiêu trận đánh. Mới đây, giới nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc khi nghiên cứu, đối chiếu, tổng hợp, so sánh từ các sử liệu như: “Ngô việt Xuân Thu”, “Việt sắc thư”, “Tả truyện”, “Sử ký” đã đưa ra kết luận: Trong sự nghiệp quân dịch của mình, Tôn Vũ chỉ trực tiếp chỉ huy 5 trận đánh và chính 5 trận chiến “để đời” này đã góp phần đưa tên tuổi của ông bất hủ cùng thời gian.

- Lần chỉ huy thứ nhất: Vào tháng 12 năm 512 tr.CN, khi đó Ngô Vương là Hạp Lư ra lệnh cho Tôn Vũ chỉ huy tiêu diệt 2 nước nhỏ là Chung Ngô và nước Từ.
- Lần chỉ huy thứ hai: Theo lệnh của Hạp Lư, năm 511 tr.CN, Tôn Vũ lại thống lĩnh ba quân cùng Ngũ Tử Tư, Bạch Hỷ đi chinh phạt nước Sở bởi lý do "Sở Vương từ chối không chịu trao thanh bảo kiếm Trạm Lô cho Hạp Lư".


- Lần chỉ huy thứ ba: Vào năm 510 tr.CN, lúc này giữa nước Ngô và nước Việt lần đầu tiên xảy ra cuộc chiến tranh quy mô lớn mà sử sách còn ghi lại đó là cuộc “Đại chiến Huề-Lý”. Trong cuộc chiến này lần đầu tiên Tôn Vũ đưa ra cách dụng binh “Quý hồ tinh bất quý hồ đa”.
- Lần chỉ huy thứ tư: Vào năm 509 tr.CN xảy ra cuộc “Đại chiến Dự Chương” giữa hai nước Ngô và Sở. Tôn Vũ đã dùng lối đánh “vu hồi” tập kích doanh trại bắt sống công tử Phàm, quân Sở từ thế mạnh, chuyển sang yếu cầm cự chưa đầy một tháng phải rút chạy về nước.
- Lần chỉ huy thứ năm: Vào ngày 18-11-506 tr.CN, hai nước Ngô-Sở một lần nữa xảy ra chiến tranh, sử sách gọi đây là "cuộc chiến Bách Cử", cuộc chiến lớn nhất trong lịch sử 2 nước. Khi tác chiến, Tôn Vũ triệt để lợi dụng địa hình thuận lợi của 2 nước "đồng minh" để triển khai chiến thuật “Khống chế chính diện”, “Tập kích vu hồi mạn sườn” của mình.

Năm trận đánh “để đời” cùng với bộ “Tôn Tử binh pháp” dài 13 thiên bất hủ này đã đưa uy danh cũng như tài thao lược quân sự của Tôn Vũ nổi tiếng khắp thế giới cho tới ngày nay.

VÌ SAO KHỔNG TỬ ĐƯỢC SUY LÀ BẬC " THÁNH NHÂN MUÔN ĐỜI" ?

Các lời giảng dạy của Đức Khổng Tử tuy không gây được ảnh hưởng trong thời đại của ông song nhờ các môn đệ và các nhà trí thức theo Khổng Học, đạo Khổng đã trở thành một triết lý chính thức của Trung Hoa vào thế kỷ thứ II (tr.CN).


Đức Khổng Tử tên là Khâu, tự là Trọng Ni, sinh ngày 27 tháng 8 âm lịch năm Canh Tuất (551 tr.CN) tại làng Xương Bình (Sơn Đông-Trung Quốc) trong một gia đình mà ông tổ ba đời vốn thuộc dòng quí tộc sa sút từ nước Tống dời đến nước Lỗ.


Những kinh nghiệm cuộc sống từ tuổi thơ ấu đã giúp ông nhận thấy nỗi thống khổ của dân nghèo, ông nhận thấy cái thế giới ông đang sống đang phân rã ghê gớm và vì thế rất cần có những thay đổi. Ông thường có dịp tiếp cận với thường dân cũng như giới quý tộc, nhưng ông luôn đánh giá thấp hầu hết giới quý tộc Trung Hoa thời đó.

Khổng Tử khinh miệt những trò xảo ngôn miệng lưỡi. Ông rất ít khi diễn thuyết trước đám đông. Tuy nhiên, những ai tiếp cận với ông đều được nghe những ý tưởng canh tân xã hội của ông, và dần dần họ trở thành môn đệ của ông. Trong số môn đệ ấy có những người chỉ nhỏ tuổi hơn ông một chút. Ngày nay đọc Luận Ngữ – tác phẩm ghi lại tất cả những gì ông đã nói – người đời sau đều cảm nhận cái hấp lực từ nhân cách của ông.)

Trong những lời giáo huấn của Khổng tử đều nhấn mạnh tầm quan trọng của khái niệm đã tồn tại rất lâu đời trong lịch sử Trung Quốc, đó là “lý”. Đây cũng chính là cách ứng xử thích hợp, đúng lúc. Trong các quan điểm về tôn giáo, Khổng Tử đã đề cao những quan niệm có từ thế kỷ trước truyền lại. Do đó ông tin ở trời (thiên) và thờ cúng tổ tiên. Việc thờ cúng tổ tiên được khuyến khích coi là việc thể hiện đạo hiếu của con cái với cha mẹ, đạo hiếu được Khổng Tử coi là đức tính cao quý nhất.

Đối với Khổng Tử, đạo hiếu được coi là nền tảng của gia đình và đất nước. Gia đình được coi là hạt nhân của đất nước và “ngũ thường”, tức năm mối quan hệ: quân thần (vua-tôi), phụ tử (cha-con), phu thê (vợ-chồng), huynh đệ (anh-em), bằng hữu (bạn bè), được xác định bởi ba đức tính: hữu ái, chính trực và biết tôn trọng.

Trong cuốn Luận Ngữ, Khổng Tử tự coi mình là một "người truyền đạt lại cái đã có mà không phát minh ra thứ gì khác". Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học ngay ở chương mở đầu. Ông được người Trung Hoa coi là bậc “Thánh nhân”. Thay vì tìm cách xây dựng một lý thuyết mang tính hệ thống về cuộc sống và xã hội, ông muốn các môn đồ của mình phải suy nghĩ sâu sắc cho chính mình và lặng lẽ nghiên cứu thế giới bên ngoài, chủ yếu thông qua các cuốn kinh cũ và qua các sự kiện quá khứ có liên quan (như các cuốn Biên niên sử) hay những tình cảm của nhân dân trong quá khứ (như Kinh Thi).

Ông và môn đệ hình thành một trường tư thục đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa có sự giáo dục nâng cao với tiêu chí: “phát triển và rèn luyện trí tuệ, đạo đức con người để mở mang, kiên cường và khép vào kỷ luật". Ngày xưa, triều đình phong kiến Trung Hoa chỉ có những chức quan phụ trách việc dạy dỗ con em của giới quý tộc và quan lại. Những người được sắc phong làm quan chức nhỏ sẽ vào triều và học tập cách làm quan nơi các quan chức cao hơn. Lối giảng dạy này dường như chủ yếu là huấn luyện để người học chỉ có thể thi hành một chức vụ nào đó.

Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử bôn ba từ nước này sang nước khác khắp Trung Hoa rộng lớn để tìm minh vương biết áp dụng học thuyết của ông. Tiếc thay các vị vua chúa chỉ biết trọng bá đạo hơn là vương đạo. Năm 51 tuổi, ông quay lại nước Lỗ và được giao coi thành Trung Đô, năm sau được thăng chức Đại tư khấu (coi việc hình pháp), kiêm quyền tể tướng. Sau ba tháng, nước Lỗ trở nên thịnh trị. Nhưng rồi bị ly gián, gièm pha, ông bèn từ chức và lại ra đi một lần nữa. Năm 68 tuổi, Khổng Tử trở về nước Lỗ, tiếp tục dạy học và bắt tay vào soạn sách. Ông mất tháng 4 năm 479 tr.CN, thọ 73 tuổi.


Ngay sau khi Khổng Tử mất, Khúc Phụ quê hương ông đã trở thành nơi hành hương bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ ông. Hiện nay, đây vẫn là một địa điểm du lịch văn hóa nổi tiếng để người Trung Hoa viếng thăm mộ ông và những ngôi đền xung quanh. Việc thờ phụng Khổng Tử có thể coi là hình thức mở rộng việc thờ cúng tổ tiên và đã trở thành phổ biến vào thế kỷ thứ II (tr.CN) ở Trung Hoa, khi các vị hoàng đế đều đến dâng lễ vật cúng tế tại mộ ông, hàm ơn những điều giáo huấn của ông đã có tác dụng giúp vua trị nước.

Các kinh sử Trung Hoa cùng với bộ sách Luận Ngữ của Khổng Tử đã trở thành nền tảng Đạo Khổng (Khổng giáo). Luận Ngữ được lưu truyền như một cuốn sách tổng hợp những lời Khổng Tử dạy bảo do các môn đệ ghi lại, trong đó Khổng Tử bàn luận về các vấn đề đạo đức và xã hội.

Các học trò của Khổng Tử sau đó đều trở thành những bậc hiền nhân của Trung Hoa, họ đã đóng góp nhiều công sức trong việc truyền bá và phát triển đạo Khổng trong xã hội. Do đó, trong 2000 năm, Đạo Khổng đã trở thành quốc giáo, là chuẩn mực tinh thần của Trung Hoa và các đất nước vùng Viễn Đông vì có nội dung nhấn mạnh vào đạo đức và luân thường, bắt nguồn từ truyền thống lâu đời của dân tộc Trung Hoa.

* Ngoài đất nước Trung hoa, Triều Tiên và Nhật Bản đều có Văn Miếu thờ Khổng Tử với quy mô rộng lớn, song thời điểm thiết lập muộn hơn. Ở nước ta, việc lập miếu thờ đức Khổng Tử được sử sách ghi lại là vào năm Canh Tuất (1070) dưới triều Lý. Vua Thánh Tôn nhà Lý cho lập Văn Miếu (Huế), đắp tượng Khổng Tử cùng các học trò của ông là Chu Công, Nhan Tử, Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử. Văn Miếu này được xem là nơi thờ Khổng Tử đầu tiên của Việt Nam.
 

cohonnhien

Thành viên
#18
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p18)

" TỨ ĐẠI MĨ NHÂN" CÓ ẢNH HƯỞNG THẾ NÀO ĐẾN LỊCH SỬ TRUNG QUỐC ?


Trong lịch sử Trung Quốc có bốn người con gái được mệnh danh là "tứ đại mỹ nhân" với sắc đẹp chim sa, cá lặn, nguyệt thẹn, hoa nhường, đã khuynh đảo cả đất nước, thay đổi lịch sử... tên tuổi của họ mãi được lưu danh muôn đời.

Nhan sắc của "tứ đại mỹ nhân" Trung Hoa được ca ngợi là "lạc nhạn" (chim nhạn sa xuống đất), "trầm ngư" (cá phải lặn sâu dưới nước), "bế nguyệt" (che lấp cả mặt trăng) và "tu hoa" (khiến hoa phải xấu hổ).

Theo thứ tự thời gian, bốn người đó là:

-Đại mỹ nhân "trầm ngư" là Tây Thi. Thời Xuân Thu, khoảng thế kỷ VII- VI trCN.
-Đại mỹ nhân "lạc nhạn" là Chiêu Quân. Thời nhà Tây Hán, khoảng thế kỷ I tr.CN.
-Đại mỹ nhân "bế nguyệt" là Điêu Thuyền. Thời Tam Quốc, khoảng thế kỷ thứ III.
-Đại mỹ nhân "tu hoa" là Dương Quý Phi. Thời nhà Đường (719-756)

1. Tây Thi

Tây Thi, còn gọi là Tây Tử, tên Di Quang, là một giai nhân tuyệt sắc ở nước Việt (một nước thuộc tỉnh Triết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Ðông ngày nay) thời Chiến Quốc. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn củi, nàng dệt vải ở thôn Trữ La. Trữ La có hai thôn: Ðông thôn và Tây thôn, phần nhiều họ Thi. Vì nàng ở Tây thôn nên gọi nàng là Tây Thi.

Ngày ấy, nước Ngô đem quân đánh nước Việt, vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận phải cùng vợ sang làm người tù chăn ngựa cho vua Ngô. Sau khi trở về quê hương, Câu Tiễn uất ức căm hờn, chỉ mong rửa thù. Ðại phu Văn Chủng hiến cho 7 kế phá Ngô. Một trong 7 kế là đem mỹ nữ sang dâng để mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành ngay. Trong vòng nửa năm tuyển được 2.000 mỹ nữ, lại chọn người đẹp nhất là Tây Thi. Câu Tiễn sai Tướng quốc là Phạm Lãi đem 100 nén vàng đến thôn Trữ La rước nàng về, cho ngồi trong xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài đón xem.

Ba năm sau, Tây Thi cùng một số mỹ nữ đã học múa hát thành thạo. Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai vừa trông thấy nàng đã điêu đứng, cho là thần tiên giáng trần, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn như ngây dại .... Tây Thi được Phù Sai cực kỳ yêu mến. Phù Sai xây cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm cảnh cho nàng đi dạo, ngắm cảnh. Lại cất Hưởng điệp lan, Ngoạn hoa trì, Ngoạn nguyệt trì, Ngô vương tỉnh, v.v... để Tây Thi ngắm hoa lan, thưởng trăng và soi bóng mình dưới giếng. Phù Sai còn lập Cầm Đài để thưởng thức Tây Thi đàn những cung đàn tuyệt diệu. Phù Sai lại cho đào một con sông nhỏ ở trong thành gọi là Cẩm phàm hình, để cùng Tây Thi dong thuyền và ông còn làm nhiều điều nữa không kể hết ...

Từ khi có Tây Thi, Phù Sai cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, không thiết gì đến việc nước. Tây Thi, người đẹp kiều diễm ấy, tuy có thân hình mảnh mai như cành liễu yếu mềm nhưng mang một ý chí phi thường quyết lật đổ cả một triều Ngô. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn tưởng như chỉ dệt vải, quay tơ nhưng lại dùng để bóp nát cả một nước Ngô binh hùng, tướng mạnh. Mắt nàng cau một cái là một cái đầu rơi. Môi nàng cười một nét là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu. Ngũ Viên, một vị tướng quốc kiên trung, đa mưu túc trí, dũng lược đã vì nàng mà chết dưới thanh kiếm Chúc lâu của Phù Sai! Nước Ngô ngày càng suy yếu. Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận, Phù Sai phải tự tử.

2. Chiêu Quân

Chiêu Quân tên thật là Vương Tường, một cung phi của vua Nguyên đế nhà Hán (48 - 53 tr.CN). Một lần nhà vua nằm mộng thấy một mỹ nhân cùng giao ước với mình trăm năm, nhà vua ngày đêm mơ tưởng đến người trong mộng nên truyền các quan địa phương tìm cho được người đẹp đó. Thái sư Mao Diên Thọ phụ trách việc ấy, ông ta thừa cơ "nước đục thả câu", ăn hối lộ của cung phi. Hễ ai đút lót tiền thì cho vẽ đẹp đẽ, xinh tươi dâng lên vua.

Chiêu Quân là một cô gái xinh đẹp, ngay thẳng nên không chịu lo lót, do đó khi cầm bức vẽ Chiêu Quân, hắn lấy mực chấm dưới mắt Chiêu Quân một chấm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên vua, hắn sàm tấu rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có nốt ruồi mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ" (nốt ruồi sát phu). Nhà vua nghe vậy nên không đoái hoài đến Chiêu Quân. Nhưng tiếng đàn tuyệt diệu của Chiêu Quân đã khiến cho Hoàng hậu thấu rõ oan tình và dàn xếp cho nàng gặp Hán vương. Chiêu Quân được phong làm Tây Cung vì nhà vua nhận ra nàng đúng là người trong mộng.

Vì chuyện này, Mao Diên Thọ bị kết án nhưng trốn được qua đất Hồ, đem dâng Phiên chúa bức tranh của Chiêu Quân làm Phiên chúa say đắm. Giặc Hung Nô khởi loạn, binh Hán đại bại Phiên chúa đòi phải cống Chiêu Quân thì mọi việc được yên. Trước cảnh giang sơn nghiêng ngửa, vua Hán đành phải ngậm ngùi đưa Chiêu Quân sang cống Hồ. Khi qua ải Nhạn Môn, trong nỗi niềm thương nước nhớ nhà, giận kẻ gian thần, nàng xuống kiệu, hướng về quê hương và dùng đàn gảy lên khúc "Khúc quá quan". Giọng đàn bi ai thảm thiết, mọi người theo đưa đều não lòng nhỏ lệ, cây cỏ bên đường cũng héo hắt, gục xuống mặt đất buồn lây ... Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy! Cái chết trinh liệt của nàng khiến cho mọi người, kể cả Phiên chúa, ngậm ngùi thương tiếc và cảm phục. Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và sự hy sinh cao đẹp của nàng Chiêu Quân.

Tỉnh Tuy Viễn ở Trung quốc vẫn còn mộ của Vương Chiêu Quân. Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá. Mộ của Chiêu Quân ở ngôi miếu giữa, hai bên là mộ của hai nữ tỳ đã cùng tự tử với nàng. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian "Vương Chiêu Quân chi mộ". Tương truyền cỏ ở chung quanh vùng này đều màu trắng, chỉ có cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống cỏ ở Trung quốc mới có. Phải chăng đó là hồn thiêng đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc chuyện lạ để tiếng muôn đời?

3. Ðiêu Thuyền

Ðiêu Thuyền là một nhân vật nổi tiếng thời Tam Quốc, được mệnh danh là người đẹp "bế nguyệt", có sắp đẹp khiến cho trăng cũng phải xấu hổ mà giấu mình đi.

Thời Tam quốc, Ðổng Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật thân tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lĩnh hơn 200.000 quân ở Hiệp Tây. Với lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua. Nhân dịp triều đình bị loạn Thập thường thị (10 tên hoạn quan), Ðổng Trác lấy cớ hộ giá kéo quân về triều, hắn chuyên quyền, khống chế các quan, giết vua Thiếu đế, Hà hậu, và Ðường phi. Hắn còn vào cung gian dâm cùng cung nữ và ngủ luôn trên long sàng, làm nhiều điều ngang ngược.

Ðổng Trác có đứa con nuôi tên Lã Bố, sức đánh trăm người nên càng kiêu ngạo, hống hách. Ai chống đối bị giết ngay. Trước sự tàn bạo của Ðổng Trác, lòng dân căm phẫn, tất cả 18 chư hầu nổi lên nhưng đều bị Lã Bố đánh bại. Ðại thắng, Đổng Trác càng kiêu căng và càng gây nhiều tội ác.

Nàng Ðiêu Thuyền bị loạn giặc nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết, phiêu bạt lênh đênh, nàng xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi. Vì căm thù nghịch tặc Đổng trác, Vương Doãn dùng "liên hoàn kế" gả Điêu Thuyền cho cả 2 cha con Đổng Trác và Lã Bố để ly gián. Và kết cục là Lã Bố đã giết chết Đổng Trác.

Trong "Thánh Thán Ngoại Thư", Mao Tôn Cương viết về Ðiêu Thuyền như sau: "18 lộ quân chư hầu không giết nổi Ðổng Trác, mà một thiếu nữ đào tơ liễu yếu như Ðiêu Thuyền đã giết được Trác. Ba anh em Lưu, Quan, Trương hùng liệt không thắng nổi Lã Bố, chỉ một nàng Ðiêu Thuyền thắng nổi... Tây Thi với Ðiêu Thuyền cùng lấy sắc khuynh thành. Nhưng việc làm của Tây Thi còn dễ, việc của Ðiêu Thuyền khó hơn. Tây Thi chỉ phải đánh ngã một mình Ngô Phù Sai. Ðiêu Thuyền phải đồng thời đánh ngã cả Lữ Bố và Ðổng Trác. Phải luôn luôn nghĩ mưu kế trong lòng, thay đổi bộ mặt để đối phó với cả hai bên. Vì thế, công của Ðiêu Thuyền đáng ghi vào sử xanh".

Sau khi giặc Đổng tan, Lã Bố lại bị Tào Tháo giết và không ai biết tông tích của Ðiêu Thuyền ở đâu cả. Người xưa ví nàng như là con rồng thiêng, chỉ lộ cái đầu, cái mình với đời mà không cho đời sau biết cái đuôi mình ẩn đi đâu nhưng tên tuổi ngàn năm lưu sử sách.

4. Dương Quý Phi

Dương Quí Phi tên thật là Dương Ngọc Hoàn, sinh ở tỉnh Tứ Xuyên vào khoảng năm 719. Nàng là con út trong số bốn người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Dương Quí Phi nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo - con trai vua Ðường Huyền Tông (Ðường Minh Hoàng). Vì quá say mê sắc đẹp của Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi nàng là Dương Quý Phi.

Huyền Tông say đắm Dương Quí Phi, chiều chuộng nàng hết mực. Mỗi cuộc đi tắm suối của nàng tốn hàng vạn bạc và làm chết hàng trăm mạng người, nhà vua cũng thẳng tay, không chút tiếc rẻ. Dương Quí Phi đã đẹp lại có tài gẩy đàn tỳ bà, giỏi về âm nhạc. Nàng đặt được nhiều khúc hát và điệu múa làm cho Huyền Tông ngày càng say đắm hơn.

Huyền Tông suốt ngày đêm cùng Dương Quí Phi yến tiệc đàn ca, bỏ cả việc triều chính. Nhà vua lại tin dùng An Lộc Sơn là một võ tướng Phiên, cho giữ phần chỉ huy nửa lực lượng quân sự của triều đình. Có sách chép An Lộc Sơn được Dương Quí Phi nhận làm con nuôi, được tự do ra vào cung cấm để cùng thông dâm với nàng. Huyền Tông mù quáng, không biết gì cả.

Bấy giờ, Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quí Phi) nắm giữ toàn quyền binh lực. Sau khi lên đến chức thượng thư và hai con trai là Dốt và Huyên sánh duyên cùng hai quận chúa Vạn Xuân và Diên Hòa, Dương Quốc Trung lại càng kiêu hãnh, tự đắc, có ý định phản nghịch. Thấy An Lộc Sơn như cái gai trước mắt nên quyết mưu hại. An Lộc Sơn biết, bỏ trốn. Ngày 16 tháng 12 năm 755, An cử binh từ quận Ngư Dương đánh thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại bại. Nhà vua và Dương Quí Phi cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào đất Thục. Ngày 14 tháng 7 năm 756, mọi người đến Mã Ngôi thì tướng sĩ không chịu đi được nữa, vì lương thực đã hết. Quân sĩ khổ nhọc mà Dương Quốc Trung và gia quyến đều no đủ sung sướng, nên họ nổi lên chống lại. Dương Quốc Trung đàn áp nhưng bị loạn quân giết chết. Lòng căm phẫn đối với họ Dương chưa tan, loạn quân bức vua đem thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Vì họ cho rằng quí phi là mầm sinh đại loạn. Nhà vua không còn cách nào khác, đành phải hy sinh Dương Quý Phi. Khi đó nàng 38 tuổi.

Ngày nay, di tích về Dương Quý Phi vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ "Dương Quý Phi toàn dục diễm tích" (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cởi áo, lúc nàng nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, .... Dưới các bức vẽ có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752).
XƯỜNG XÁM RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO ?


Không quá cầu kỳ mà lại hết sức trang nhã, tinh tế, xường xám quả thực là một thiết kế hoàn hảo tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Trung Hoa.


Xường xám là từ đã được Việt hoá từ Cheongsam, dùng để chỉ loại "áo dài" đặc trưng của người Trung Quốc. Tuy nhiên, chỉ có người Quảng Đông mới gọi loại áo này là xường xám. Trong khi đó, ở các tỉnh thành khác người ta dùng "qipao" để chỉ loại áo truyền thống dành cho phụ nữ, còn Cheongsam lại được dùng để chỉ loại áo dài truyền thống dành cho nam giới hoặc loại áo dài hai mảnh ở Trung Hoa đại lục.


Khi người Mãn Châu xâm lược Trung Hoa, họ thành lập triều đình phong kiến nhà Thanh và thiết lập những nhóm người gồm chủ yếu là người Mãn Châu. Mỗi nhóm được gọi là một Kỳ (qi) và những người này đã mất dần nguồn gốc Mãn Châu của mình theo năm tháng. Thời đó, phụ nữ Mãn Châu chủ yếu mặc những chiếc váy dài một mảnh, được gọi là "qipao" (trang phục của người Kỳ) chính là chiếc xường xám sau này. Đầu thập niên 30, xường xám rất được phụ nữ thành thị ưa chuộng. Kiểu áo phổ biến lúc đó là cổ cứng, cổ áo càng cao càng mốt. Vì chạy theo thời trang nên dù vào mùa Hè nóng bức, các cô vẫn cố chịu đựng với chiếc áo bó sát người, cổ vừa cứng vừa cao. Sau một thời gian, chiếc áo lại được biến đổi, cổ càng thấp càng đẹp. Tay áo cũng được biến hóa không ngừng, khi thì thịnh hành kiểu dài quá cổ tay, khi thì theo mốt ngắn lên khuỷu tay, có khi còn sát nách. Thời đó, khi mặc xường xám, các chị em phụ nữ thường trang điểm thêm các món trang sức như trâm cài áo, vòng cổ, hoa tay, nhẫn... Năm 1644, tất cả phụ nữ bị bắt phải mặc xường xám thay cho trang phục truyền thống của người Trung Hoa. Trong suốt 300 năm sau đó, xường xám đã được coi là quốc phục của phụ nữ Trung Quốc.

Năm 1911, cuộc Cách mạng Tân Hợi lật đổ ách thống trị của Triều đình nhà Thanh, xường xám đã bị cấm trong một thời gian dài và chỉ được sử dụng rộng rãi tại Thượng Hải. Sau này, những người dân di cư đã mang chiếc áo sang Hồng Kông và đây chính là mảnh đất nơi xường xám được những người phương Tây chú ý đến. Mãi một vài thập kỷ gần đây xường xám mới bắt đầu quay trở lại và trở nên phổ biến ở Trung Quốc.


Những chiếc xường xám mà chúng ta hay thấy ngày nay bắt nguồn từ "Áo dài Thượng Hải". Từ đầu thế kỷ 20, những nhà thiết kế trang phục ở đây đã thay đổi gần như hoàn toàn hình dáng của chiếc áo này. Không còn rộng thùng thình và thô kệch như trước đây, chiếc áo dài truyền thống ôm sát hơn, làm lộ rõ những đường cong tuyệt mỹ của cơ thể.
Xường xám có cổ cao, cài khuy kín. Tay áo có thể ngắn, dài hoặc tay lỡ, tuỳ theo mùa cũng như sở thích của người mặc nó. Khuy áo được cài bên phải. Phần ngực hơi rộng, nhưng ngược lại phần eo lại được may ôm sát thân hình người phụ nữ. Tất cả những nét rất riêng này đã tạo nên vẻ đẹp nửa được che kín, nửa gợi mở của người phụ nữ. Vì vậy mà người phương Tây vẫn thường gọi thứ váy áo này là "all-concealing, all-revealing dress" (che thật kín nhưng đồng thời cũng khơi gợi những đường cong tuyệt mỹ mà tạo hoá đã ban tặng cho phụ nữ).

May một chiếc xường xám cũng không đến nỗi quá phức tạp, không cầu kỳ, không tốn quá nhiều vải hay đòi hỏi nhiều loại phụ liệu may mặc kèm theo như thắt lưng, khăn quàng... Một điểm độc đáo nữa của xường xám đó là nó có thể được may từ nhiều chất liệu khác nhau, người mặc cũng có thể lựa chọn chiều dài thích hợp sao cho thuận tiện trong cuộc sống hàng ngày nhưng cũng hết sức trang nhã trong những dịp lễ đặc biệt.

Thướt tha, dịu dàng và tinh tế, xường xám không chỉ là niềm tự hào của riêng người phụ nữ Trung Quốc mà còn là nét đẹp được toàn thế giới ngưỡng mộ.
 

cohonnhien

Thành viên
#19
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p19)

CON ĐƯỜNG TƠ LỤA LÀ GÌ ?

Con đường tơ lụa không chỉ là huyết mạch thông thương nối liền Trung Quốc và Tây Á, mà còn là hành trình văn hoá, tôn giáo phong phú, để lại nhiều dấu ấn trong nền văn minh của 2 bờ châu lục.

Con đường tơ lụa dài trên 8000 km, xuyên qua vùng Trung Á, nối liền Trung Hoa rộng lớn với vùng Tây Á xa xôi. Thực chất, Con đường tơ lụa không phải là một tuyến đường duy nhất chạy thẳng mà bao gồm rất nhiều tuyến nhỏ đi đến các ốc đảo, thành phố khác nhau.

Một số địa danh chính nằm trên Con đường tơ lụa:

- Thành Trường An (Trung Quốc). Đây là nơi xuất phát của tất cả các tuyến đường, nơi các thương gia Trung Quốc tập kết hàng hoá tơ lụa chuẩn bị cho những chuyến buôn bán lớn.

- Cao nguyên Tây Tạng

- Sa mạc Taklimakan: Nơi giáp ranh giữa Trung Quốc và vùng Tây Á. Trước khi con đường tơ lụa được ra đời, Sa mạc Taklimakan được mệnh danh là vùng đất tử thần (Land of Death), một trong những nơi khắc nghiệt nhất thế giới, quanh năm hầu như không có mưa, bão cát liên tục. Rất nhiều thương nhân đã bỏ mạng ở nơi này.

- Thành phố Samarkand: Thành phố cổ trên 2.500 năm của của Uzbekistan, quê hương của lạc đà.

- Thung lũng Bamiyan nằm trong vùng núi Hindukush của Afghanistan.

- Kinh thành Baghda của Ba Tư.


Mọi tuyến đường đều xuất phát từ thành Trường An, qua đường hành lang Gansu, và đi tới vùng Đôn Hoàng bên bờ sa mạc Taklimakan. Từ đây chia ra làm nhiều nhánh:

- Nhánh phía Bắc đi qua Vũ Môn Quan, sa mạc Gobi tới Hami, qua dãy núi Thiên Sơn nằm bao quanh sa mạc Taklimakan, xuyên qua những ốc đảo lớn ở Turfan và Kuqa đến Kashgar nằm dưới chân núi Pamir.

- Nhánh phía Nam bắt đầu từ Đôn Hoàng, đi hết sa mạc qua các vùng Miran, Hetian, Shache, cuối cùng vòng lên phía Bắc nhập vào một tuyến đường khác đổ về Kashgar.

- Vô số tuyến đường khác nữa xuất phát từ 2 nhánh chính này.


Người ta mua bán rất nhiều loại hàng hoá khác nhau từ vàng, thuỷ tinh, đồng, ngà voi cho tới những loài động, thực vật quý hiếm. Cái tên con đường tơ lụa có lẽ xuất phát từ thực tế: lụa là mặt hàng được các thương nhân phương Tây ưa chuộng nhất. Người ta thường cho rằng người Roma lần đầu tiên thấy lụa trong một cuộc chinh phạt đất nước Pa-thi ở Tây Á và ngay lập tức họ đã nghĩ ngay tới việc phải làm giàu từ thứ vải mềm mại, hấp dẫn này. Họ bắt các tù binh của Pa-thi và tìm hiểu được rằng thứ vải đặc biệt này do những người ở một bộ tộc lạ phía Đông sản xuất và đã khám phá ra con đường để đi tới đây. Từ Silk Road không phải có nguồn gốc Roma mà là một thuật ngữ do học giả người Đức, Von Richthofen đặt tên từ thế kỷ thứ 19.

Ngày nay, con đường tơ lụa vẫn có một vị trí rất quan trọng trong mậu dịch giữa châu Âu và châu Á, đặc biệt những giao dịch qua biên giới ở các quốc gia trên tuyến đường. Trung Đông với trữ lượng dầu mỏ khổng lồ. Người ta đã tiến hành xây dựng nhiều tuyến đường xe lửa vượt qua sa mạc khắc nghiệt và tiến hành nhiều biện pháp để ngăn chặn quá trình sa mạc hoá.
TẾT TRUNG THU BẮT NGUỒN TỪ ĐÂU ?


Từ rất lâu rồi, năm nào cũng vậy, cứ tới rằm tháng 8 âm lịch, trẻ em mọi miền đất nước lại nô nức rước đèn, phá cỗ, múa hát, xem kỳ lân thật vui. Đó chính là Tết Trung Thu hay còn gọi là Tết Thiếu nhi...

Tết Trung Thu đã có từ thời vua Đường Minh Hoàng (Trung Quốc) vào đầu thế kỷ VIII (713-755). Sách xưa chép rằng, nhân một đêm rằm tháng 8, khi cùng các quan ngắm trăng, vua Đường ao ước được lên thăm cung trăng một lần cho biết. Pháp sư Diệu Pháp Thiên xin làm phép biến ước mơ của vua thành hiện thực. Lên tới cung trăng, Đường Minh Hoàng được Hằng Nga bày tiệc tiếp đãi, cho hàng trăm tiên nữ mặc áo lụa mỏng nhiều màu rực rỡ, tay cầm tấm lụa trắng vừa múa vừa hát khúc “Nghê-Thường vũ y”.Vua Đường nhờ có khiếu thẩm âm nên vừa trầm trồ khen ngợi vừa lẩm nhẩm học thuộc lòng bài hát và điệu múa mong đem về hoàng cung bày cho các cung nữ của mình trình diễn.

Cuối năm đó, quan Tiết Độ Sứ cai trị xứ Tây Lương mang về triều tiến dâng một đoàn vũ nữ với điệu múa Bà-la-môn Vua thấy điệu múa có nhiều chỗ giống “Nghê-Thường vũ y” liền chỉnh sửa hai bài hát và hai điệu làm thành “Nghê-Thường vũ y khúc”. Về sau, các quan cũng bắt chước vua mang điệu múa câu hát này về các vùng xa xôi nơi họ cai trị, dần dần phổ biến khắp dân gian.

Từ đó, tục ngắm trăng, ca múa biến thành thú vui chơi đêm rằm Trung Thu.

Tục ăn Tết Trung Thu cũng lan rộng sang các nước láng giềng của Trung Quốc trong đó có Việt Nam. Sách sử nước ta không nói rõ dân ta bắt đầu chơi Tết Trung Thu từ bao giờ. Chỉ biết hàng mấy trăm năm trước, tổ tiên ta đã theo tục này. Ngay từ đầu tháng 8 âm lịch, lồng đèn, bánh nướng, bánh dẻo đã được bày bán la liệt trong các cửa hiệu rực rỡ ánh đèn. Ngoài các loại đèn giấy, bánh kẹo còn có các con giống, đầu lân, mặt ông địa... xen lẫn trong những tiếng cười trong trẻo của trẻ thơ. Tết Trung thu đã trở thành một nét đẹp của văn hóa dân gian Việt Nam.
TẾT TRUNG THU CÓ NGUỒN GỐC ,Ý NGHĨA NHƯ THẾ NÀO ?


Theo phong tục, Tết Trung Thu được tổ chức vào ngày rằm tháng tám khi trăng thu sáng trong nhất. Trong dịp này, người lớn thưởng trăng, trẻ con thì vui chơi, múa hát và cả gia đình cùng nhau thưởng thức bánh kẹo trái cây trong đêm Trung Thu gọi là "phá cỗ."

Tết Trung thu có từ bao giờ?

Có nhiều cách để lý giải về nguồn gốc của ngày Tết Trung thu nhưng theo sử sách lưu truyền lại Tết Trung thu đã có cách đây ít nhất 2.000 năm. Người Việt ta ăn Tết Trung Thu vào ngày rằm tháng tám âm lịch theo phong tục của người Trung Hoa xưa. Ngày 15 tháng 8 (âm lịch) là chính giữa mùa thu – Tiết Trung thu được coi là ngày "lành" để làm lễ tế thần mặt trăng.

Những câu chuyện về chú Cuội và chị Hằng được kể lại để nhắc nhở trẻ em về tính ham chơi. Vào ngày này, các gia đình thường bày cỗ cúng rằm để mừng trung thu và các loại đèn thắp bằng nến để trẻ con rước đèn. Người ta mua bánh trung thu, trà, rượu để cúng tổ tiên, biếu ông bà, cha mẹ, thầy cô, bạn bè, họ hàng, và các ân nhân khác là dịp tốt để con cháu tỏ lòng biết ơn ông bà cha mẹ. Đó là ý nghĩa của ngày Tết Trung thu.

Bánh Trung thu

Tục lệ ăn bánh hình mặt trăng trong dịp Tết Trung thu đã có từ thời Bắc Tống ở Trung Quốc, cách đây trên 1.000 năm.

Trong đêm 15 tháng 8 Âm lịch hằng năm, khi trăng rằm tỏa sáng, lễ tế thần mặt trăng bắt đầu. Trên bàn thờ có hoa quả, có bánh hình mặt trăng còn gọi là bánh "đoàn viên". Bởi lẽ, trong dịp này, cả gia đình có dịp đoàn tụ để cùng ăn bánh và cùng thưởng thức ánh trăng trong trẻo trong bầu không khí ấm áp của đêm rằm đến với mọi nhà.

Bánh dẻo tròn gợi hình mặt trăng

Bánh dẻo có hai phần: Phần áo và phần nhân. Áo bánh phải chọn gạo nếp vàng loại ngon. Gạo được rang rồi xay, hoặc giã nhỏ mịn, nhào với nước đường thắng ngan ngát một mùi hương bưởi. Lúc ra khuôn, bánh hiện rõ những hoa văn chìm nổi của một bông hoa nở 8 cánh hoặc 10 cánh. Khuôn mặt áo bánh dẻo mịn, bánh ngọt đậm, thơm dịu. Phần nhân bánh quan trọng đầy bí quyết nhà nghề như: rang vừng, ủ vừng, xử lý mứt bí khẩu, mứt sen, hạt dưa, hạnh nhân, ướp nhân, tạo hương cho nhân... Nhân của bánh dẻo chay tịnh, thoảng hương đồng gió nội. Chiếc bánh dẻo tròn, tượng trưng cho mặt trăng. Nhân bánh nướng được cải tiến với nhiều sáng kiến, ngoài mứt bí, hạt dưa, còn có thêm lòng đỏ trứng ở giữa hoặc thịt lợn quay, gà quay, lạp sường... gọi là nhân thập cẩm. Bánh nướng cũng có loại nhân chay bằng đậu xanh mịn, dừa sợi, hạt sen... Mỗi hiệu bánh có một bí quyết riêng cho sản phẩm của mình. Màu bánh vàng sậm. Người thợ làm bánh khéo tay làm cả cái việc tạo hình hoa văn trên chiếc bánh.

Tết Trung thu, dù giàu hay nghèo, nhà nào cũng có bánh dẻo, bánh nướng trong nhà để cùng nhau thưởng thức.

Trò chơi dân gian

Ngày Tết thiếu nhi này, trẻ con không chỉ được ăn bánh kẹo, mà còn được tham gia nhiều trò chơi truyền thống như: rước đèn ông sao, đèn lồng, đèn kéo quân, múa sư tử (múa lân). Thời xưa, người Việt còn tổ chức hát trống Quân trong dịp Tết Trung Thu theo nhịp ba “thình, thùng, thình.” Trai gái hát đối đáp với nhau vừa để vui chơi vừa để kén chọn bạn trăm năm. Tục hát trống quân, theo truyền thuyết, có từ thời vua Lạc Long Quân. Sau này, điệu hát trống quân đã được Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) áp dụng khi ngài đem quân ra Bắc đại phá quân nhà Thanh vào năm 1788. Trong lúc quân sĩ rất nhớ nhà, ngài cho một số binh lính giả làm gái đôi bên hát đối đáp nhau theo nhịp ba phụ họa. Binh lính vui mà bớt nhớ nhà. Từ đó điệu hát trống quân thịnh hành.



Ngoài ý nghĩa vui chơi cho trẻ em, trong đêm Trung Thu những người cao tuổi, có kinh nghiệm thường ngắm trăng để tiên đoán mùa màng và vận mệnh quốc gia. Nếu trăng thu màu vàng thì năm đó sẽ trúng mùa tằm tơ, nếu trăng thu màu xanh hay lục thì năm đó sẽ có thiên tai, và nếu trăng thu màu cam trong sáng thì đất nước sẽ thịnh trị…
PHỤ NỮ TRUNG HOA XƯA BÓ CHÂN NHƯ THẾ NÀO ?

Những chiếc giày bé tí bằng lụa, nhiều màu sắc rực rỡ đôi khi cũng khiến người ta lo ngại. Bởi hình dáng kỳ thú và kích cỡ không tới 8cm của chúng dường như thích hợp cho đôi bàn chân búp bê hơn là cho phụ nữ. Nhưng từ hàng ngàn năm qua, tập tục quái dị của đế chế Trung Hoa cổ xưa đã tồn tại.

Truyền thuyết kể rằng, cách đây khoảng hơn ba nghìn năm, Trụ Vương đã cưới nàng công chúa Đắc Kỷ đẹp nhất thế gian. Nhưng nàng cũng là người gian ác nhất trên đời: đó là một con cáo thành tinh, hóa thành mỹ nhân được ma quỷ phái đến để phá hoại đất nước Trung Hoa. Thân thể nàng chỗ nào cũng đẹp một cách hoàn mỹ, nhưng duy chỉ có đôi chân là của con cáo. Và để che đậy đôi bàn chân hồ ly đó, Đắc Kỷ đã phải dùng dải băng lụa dài để bó chúng lại.

Họa sĩ Frédéric Pineau giải thích: "Loại truyền thuyết như thế thì nhiều lắm và trong nền văn hóa Trung Hoa người ta thường khó mà phân biệt được đâu là huyền thoại, đâu là thực tế. Nhưng, người ta biết rằng tập tục bó chân ở phụ nữ đã có từ rất sớm, khoảng thiên kỷ đầu tiên. Ái thiếp của một ông vua chư hầu lúc ấy là một vũ nữ quyến rũ có đôi chân bó trong đôi giày giống như các vũ công múa ba lê của phương Tây. Nhiều quý bà cũng bắt đầu bắt chước bó chân để có được dáng đi lảo đảo và ẻo lả". Cho đến giai đoạn thống trị của người Mãn Châu, vào 1644, tục bó chân chỉ được thực hiện trong tầng lớp quý tộc và vương giả. Sau đó, các tầng lớp khác trong xã hội cũng bắt chước theo.

90% bé gái Trung Hoa ngày xưa, khoảng 5 hay 6 tuổi, đều phải đau khổ vì tục bó chân này. Sự tăng trưởng của đôi bàn chân đã phải ngưng lại để cho kích thước của chúng không vượt quá kích thước lý tưởng 7,5cm: đó là đôi bàn chân bông sen vàng! đôi giày bé tí sẽ được làm tại nhà và hôm trước ngày bó chân lần đầu tiên, người mẹ của bé gái sẽ đặt đôi giày đầu tiên lên bàn thờ thần của lòng khoan dung. Họ phải tiến hành tục bó chân cho con gái vì lo lắng cho tương lai của con. Ở Trung Hoa thời xưa, phụ nữ phục tùng uy quyền người cha, sau đó đến chồng và nếu chồng qua đời sớm phải nghe theo người con trai. Cho nên, các cô gái Trung Hoa sẽ hạnh phúc nếu tìm được người chồng tốt.


Một nhà truyền giáo phương Tây thế kỷ 19 đã ghi lại: "Cô gái có đôi bàn chân bé khoảng 7cm, thậm chí thật gớm ghiếc, sẽ có nhiều cơ may lấy chồng hơn một thiếu nữ có đôi bàn chân bình thường". Người phụ nữ có "gót sen vàng" được đánh giá là thượng lưu và có thể đạt tới một địa vị xã hội cao quý. Còn hơn cả mọi phần khác của thân thể phụ nữ, cảm hứng tình dục của Trung Hoa cổ dành phần ưu ái cho đôi bàn chân, hay đúng hơn là cho bề ngoài của chúng.

Thế nhưng yêu bàn chân trần của một phụ nữ bị coi là một sự đồi bại. Cách đây 7 thế kỷ, triết gia Fang Xun đã nhắc nhở những người chồng: "Nếu anh cởi bỏ đôi giày và dải băng bó chân ra, cảm xúc thẩm mỹ sẽ bị phá đổ mãi mãi".

Những đôi giày bông sen vàng vô cùng phong phú. Chúng được làm bằng lụa đỏ, màu của hôn lễ và bên trong giày thường được trang trí cảnh ái ân mà người vợ trẻ sẽ đón nhận trong đêm tân hôn.

Từ trước đó, cô dâu phải thêu những đôi giày bông sen vàng cho mẹ chồng. Về mặt cá nhân, cô dâu cần có ít nhất 4 đôi giày như thế. Con số lý tưởng là 16 đôi, tức mỗi mùa dùng 4 đôi. Cũng theo quy định, trong thời gian có tang, lụa đỏ được thay bằng vải trắng hoặc các màu sậm.

Sau Cách mạng Trung Hoa năm 1949, tục bó chân đã giảm bớt do ảnh hưởng của phương Tây và sau đó mất hẳn. Bây giờ, phụ nữ bó chân chỉ còn tìm thấy đôi giày bé tí có dây buộc nhạt nhẽo - chứng tích một thời tuổi trẻ của phụ nữ Trung Hoa xưa tại các cửa hàng nhà nước cung cấp hoặc trong bảo tàng mà thôi.
 

cohonnhien

Thành viên
#20
Tìm hiểu về đất nước trung quốc(p20)

NGỌN NÚI NÀO CAO NHẤT TRUNG QUỐC ?

Với khách du lịch thập phương, ngọn núi này nổi tiếng là miền đất của sơn kì thuỷ tú, kì hoa dị thảo. Với tăng ni Phật tử trên đất Trung Hoa bao la, nó là một trong bốn ngọn núi thiêng phải chiêm bái ít nhất một lần trong đời.

Với dân ghiền kiếm hiệp, Nga Mi gắn liền với Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng khắc bạc, nàng Chu Chỉ Nhược vừa đáng thương vừa đáng giận trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung. Với khách du lịch thập phương, Nga Mi nổi tiếng là miền đất của sơn kì thuỷ tú, kì hoa dị thảo. Với tăng ni Phật tử trên đất Trung Hoa bao la, Nga Mi là một trong bốn ngọn núi thiêng phải chiêm bái ít nhất một lần trong đời.

Nga Mi là mày ngài, tức hàng lông mày dài và mượt của người con gái. Theo Thuỷ Chú Kinh, sở dĩ núi Nga Mi có tên như vậy vì ở đây có hai ngọn núi đối nhau như mày ngài. Nga Mi là ngọn núi cao nhất Trung Quốc (đỉnh Vạn Phật đạt độ cao 3.099m), thuộc đất Thục, nay là tỉnh Tứ Xuyên, cách thủ phủ Thành Đô khoảng 160 km về phía Tây Nam. Tương truyền Lý Bạch đã lên tới tận Kim Đỉnh trên ngọn Nga Mi nghe Thục Tăng Tuấn gảy đàn, uống rượu thưởng trăng và để lại những câu thơ bất hủ:

Nga Mi sơn nguyệt bán luân thu

Ảnh nhập bình khương giang thuỷ lưu…

( Núi Nga Mi, trăng nửa vành

Bóng in lũng núi sông dềnh nước xuôi…)

Bốn ngọn núi thiêng của Trung Quốc được gọi là Tứ Đại Phật sơn, bao gồm Ngũ Đài Sơn ở tỉnh Sơn Tây, trú xứ của Văn Thù Bồ tát, Cửu Hoa Sơn ở tỉnh An Huy, trú xứ của Địa Tạng Bồ tát, Phổ Đà Sơn ở tỉnh Triết Giang, trú xứ của Quan Âm Bồ tát và Nga Mi Sơn ở tỉnh Tứ Xuyên, trú xứ của Phổ Hiền Bồ tát. Khởi thuỷ Nga Mi là lãnh địa của Đạo giáo và người ta tin rằng phía bên trên Kim đỉnh còn một ngọn núi nữa, là nơi có thể dành cho các bậc thần tiên hô phong hoán vũ, đuổi gió bắt sao, tìm kiếm sự hoà hợp giữa con người và vũ trụ. Thục Sơn là một tên gọi khác, ít được biết đến của Nga Mi. Cho đến lúc Phổ Hiền Bồ tát thị hiện thì Nga Mi trở thành Đại danh sơn và tất cả chùa chiền trên núi đều thờ phụng ngài. Đường vào đất Thục năm xưa gian nan hiểm trở thế nào thì đường lên Nga Mi gập ghềnh, cheo leo như vậy. Có thể nói Nga Mi là sự hoà hợp của núi non hiểm trở, ánh sáng và sương mù, gió thoảng mây bay, cảnh thần tiên chốn hạ giới và hào quang của Bồ tát hiển linh.

Cách núi Nga Mi chừng 30 km về phía Đông là thị trấn Lạc Sơn, nơi có pho tượng Phật cổ đẽo từ đá lớn nhất thế giới còn tồn tại ( một pho tượng khác nằm trên con đường tơ lụa thuộc Apghanistan đã bị quân Taliban phá huỷ hoàn toàn ). Người Trung Quốc có câu, lên Nga Mi đảnh lễ Phổ Hiền, xuống Lạc Sơn tham bái Di Lặc.
KINH KỊCH RA ĐỜI NHƯ THẾ NÀO ?

Là tinh hoa nghệ thuật truyền thống dân tộc, Kinh kịch có ảnh hưởng rất lớn đến nhiều loại hình văn hoá đặc sắc của Trung Quốc.

Lịch sử ra đời

Kinh kịch, được mệnh danh là “Ca kịch phương Đông”, là quốc túy của Trung Quốc. Loại hình nghệ thuật này được bắt nguồn từ nhiều loại tuồng cổ địa phương, đặc biệt là “Huy Ban” (đoàn tuồng An Huy) lưu hành tại miền Nam Trung Quốc hồi thế kỷ 18. Sau này, nó có tên là Kinh kịch - nghĩa là loại kịch hình thành tại Bắc Kinh.

Năm 1790, “đoàn tuồng An Huy” đầu tiên đến Bắc Kinh biểu diễn mừng ngày sinh của hoàng đế, sau đó tiếp tục quay trở lại Bắc Kinh biểu diễn nhiều lần. Đoàn vốn có tính lưu động và do hấp thụ nhiều phương pháp biểu diễn của các chủng loại tuồng khác nhau, khi đến Bắc Kinh - nơi tập trung nhiều chủng loại tuồng địa phương - lại càng có dịp phát triển và củng cố nghệ thuật biểu diễn.

Kinh kịch quá trình thể hiện hợp nhất giữa “ca, nói, biểu diễn, đấu võ, múa ”, để thuật lại các cốt truyện, khắc họa nhân vật. Cuối thế kỷ thứ XVIII là thời kỳ phát triển rầm rộ nhất của Kinh kịch. Hồi đó, không những tuồng sân khấu dân gian rất phồn thịnh, mà trong Hoàng cung cũng thường xuyên tổ chức biểu diễn tuồng sân khấu. Điều kiện vật chất trong Hoàng cung đã hỗ trợ Kinh kịch rất nhiều quy chế về trang phục, hóa trang mặt nạ, phông cảnh sân khấu...


Những năm 1940 là giai đoạn cao trào thứ hai của Kinh kịch. Trong giai đoạn này, Kinh kịch sản sinh rất nhiều trường phái khác nhau, nổi tiếng nhất là bốn trường phái: Mai Lan Phương (1894-1961), Thượng Tiểu Vân (1990-1975), Trình Nghiên Thu (1904-1958) và Tuân Huệ Sinh (1900-1968). Mỗi trường phái lại có rất nhiều diễn viên nổi tiếng, quen thuộc trên sân khấu của các thành phố Thượng Hải, Bắc Kinh.

Mai Lan Phương là một trong những nhà nghệ thuật Kinh kịch nổi tiếng nhất thế giới, ông tập biểu diễn Kinh kịch từ năm lên 8, năm 11 tuổi đã ra mắt công chúng. Trong cuộc đời nghệ thuật sân khấu suốt hơn 50 năm, ông đã có nhiều sáng tạo và phát triển các giọng ca Đào, bạch thoại, động tác múa, âm nhạc, trang phục, hóa trang, hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo. Năm 1919, Mai Lan Phương dẫn đoàn Kinh kịch sang Nhật biểu diễn, Kinh kịch lần đầu tiên được truyền bá ra hải ngoại. Năm 1930, đoàn Kinh kịch của ông sang Mỹ biểu diễn, thu được thành công lớn và năm 1934, ông nhận lời mời dẫn đoàn sang châu Âu. Sau đó, các nơi trên thế giới đã coi Kinh kịch là trường phái sân khấu Trung Quốc .

Kể từ khi Trung Quốc tiến hành công cuộc cải cách mở cửa, Kinh kịch lại có sự phát triển mới. Là tinh hoa nghệ thuật truyền thống dân tộc, Kinh kịch đã được chính phủ Trung Quốc ra sức nâng đỡ. Ngày nay, Nhà hát lớn Trường An quanh năm đều diễn nhiều vở Kinh kịch, các cuộc thi biểu diễn Kinh kịch Quốc tế đã thu hút nhiều người hâm mộ Kinh kịch trên thế giới tham gia, Kinh kịch là chương trình bảo lưu trong giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc với nước ngoài. Nó đứng đầu Trung Quốc về số lượng nghệ nhân biểu diễn, số lượng các đoàn, số lượng khán giả xem cũng như sự ảnh hưởng sâu rộng của nó.

Mặt nạ trong Kinh kịch

Mặt nạ là nghệ thuật đặc sắc nhất trong Kinh kịch. Qua mặt nạ, khán giả có thể nhận biết các nhân vật trung thành hoặc gian trá, tốt đẹp hay xấu xa, lương thiện hay gian ác, cao thượng hay thấp hèn. Ví dụ như, nặt nạ tô đỏ thể hiện nhân vật trung nghĩa, dũng cảm, màu đen là dũng mãnh, mưu trí, màu trắng thì nhân vật đó có tính cách gian trá, độc ác, màu xanh lam thể hiện nhân vật đó kiên cường dũng cảm, màu vàng hoặc màu bạc tượng trưng cho thần phật hoặc quỷ quái.

Nhân vật trong Kinh kịch

Kinh kịch nói chung có bốn vai, đó là các vai Sinh, Đào, Tĩnh và Hài, theo đó, các vai lại chia thành những vai cụ thể hơn.“Sinh” chia thành: “ Lão sinh" - chỉ những người đàn ông trung niên chín chắn, thường xuất hiện trong các vai chính diện hoặc nhà vua, tướng lĩnh; “Tiểu sinh” - là các vai thanh niên trai tráng.

“Đào” chia thành: “Thanh Y” – chỉ các vai phụ nữ trung niên, thường là các phu nhân, tiểu thư trong gia đình quý tộc; “Võ Đào ” - các vai nữ có thể đấu võ. “Hoa Đào” chỉ các vai nữ trẻ tuổi thuộc tầng lớp thấp hèn trong xã hội, như “a hoàn, con sen”.

“Tĩnh” - chỉ các nhân nhật mặt hoa, thường là vai những người đàn ông có tính cách, phẩm chất và diện mạo khác nhau. “Mạt” cũng thuộc vai lão sinh, là những người có tuổi tác già lão, đầu óc mụ mẫm, sống trong tầng lớp thấp hèn trong xã hội. Bởi khi hóa trang vẽ một vệt trắng trên sống mũi, cho nên nhân vật này gọi là “Tiểu hoa mặt”, cùng song song với Đại hoa mặt, Nhị hoa mặt cho nên những nhân vật này thường được gọi là “Tam hoa mặt”.

“Hài” là chỉ Tiểu hoa mặt, phần lớn chỉ những người sống trong tầng lớp thấp trong xã hội, những kẻ sĩ trong dân gian nhanh trí, hài hước.
VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH ĐƯỢC XÂY DỰNG NHƯ THẾ NÀO ?


“Bất đáo Trường Thành phi hảo hán” là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc. Nó cho thấy Vạn lý Trường Thành như một công trình kiến trúc vĩ đại nhất, một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của Trung Quốc, một kiệt tác của nhân loại, công trình nhân tạo duy nhất có thể nhìn thấy từ mặt trăng.

Trường Thành bắt đầu từ ải quan Gia Dụ (Cam Túc) ở phía Tây, uốn khúc chập chùng chạy sang phía Đông đến ải quan Sơn Hải (Hà Bắc).



Kỳ quan này đã được Unesco đưa vào danh mục Di sản thế giới vào năm 1987. Đây là một bức tường lớn có tổng chiều dài hơn 6.350km, tường thành có độ cao trung bình là 8 mét, chiều rộng trung bình ở phần đáy là 6,5 mét, còn phần thành lũy đi lại được là 5,7 mét.

Về mặt lịch sử, trường thành bắt đầu được xây dựng dưới thời Xuân Thu (770-476 tr.CN), thời mà Trung Quốc bị chia cắt thành nhiều nước, một số nước phải xây thành để chống lại giặc ngoại xâm. Đến thời Chiến Quốc, Trung Quốc còn 7 nước, 3 nước ở phía Bắc và Tây Bắc là Yên, Triệu và Tần, tiếp tục xây thành ở biên giới phía Bắc để phòng chống sự xâm lấn của người Hung Nô.



Năm 221 tr.CN, vừa mới thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng sai tướng Mông Điềm kéo quân đánh Hung Nô, chiếm cứ vùng Hà Nam. Để ngừa Hung Nô tiến xuống phía Nam, vua Tần sai xây dựng thêm và gia cố ba tường thành cũ (của Tần, Triệu, và Yên). Việc này cũng do tướng Mông Điềm chỉ huy coi sóc trong 10 năm, huy động rất nhiều công sức lao động của quân lính, dân chúng, và phạm nhân. Ngoài việc nối liền ba tường thành cũ, vua Tần cho mở rộng thêm về hướng bắc. Những triều đại về sau (trừ đời Thanh) đều góp phần gia cố tu bổ thêm Trường Thành.

Đời Hán, Trường Thành được nối dài sang phía tây đến ải quan Ngọc Môn, để phòng bị giặc từ phía Tây Vực. Dọc theo Trường Thành có nhiều trại quân và nhiều tháp canh gọi là phong hoả đài. Chế độ biên phòng này rất nghiêm nhặt. Nếu thấy giặc, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa báo tin cho nhau, từ xa mấy trăm dặm quân cứu viện có thể đến ngay được.


Trường Thành đời Hán về phía Đông trùng với Trường Thành đời Tần, về phía Tây khi tới Hồi Hột thì thành đời Tần rẽ xuống phía Nam, còn thành đời Hán vẫn tiếp tục kéo dài về phía Tây, qua các quận Vân Trung, Ngũ Nguyên, Cư Diên Trạch, Tửu Tuyền, Đôn Hoàng, Dương Quan, Ngọc Môn Quan, đến Bạc Xương Hải ở tỉnh Tân Cương, dài hơn 10.000 km. Đây là bức thành dài nhất trong lịch sử nhưng nay đã đổ nát hoang tàn, ta còn thấy rõ tại Ngọc Môn Quan và Dương Quan. Hiện nay ở những khu vực này rất đìu hiu hoang vắng.

Đời Nam Bắc Triều, vua Tuyên Vũ Đế của Bắc Ngụy cho xây thêm một đoạn thành 1000 km từ phía Tây sang Đông, tức là từ Ngũ Nguyên (thuộc Nội Mông ngày nay) đến Xích Thành (thuộc Hà Bắc ngày nay). Đời Bắc Tề cũng tu sửa Trường Thành, đặt thêm các trạm biên phòng nơi xung yếu. Đời Tùy huy động trăm vạn nhân công tu bổ Trường Thành để chống giặc Đột Quyết.

Sau khi triều đại Nguyên sụp đổ, biên giới phía Bắc mất an ninh, phía Đông Bắc có giặc Nữ Chân quấy phá. Triều đình nhà Minh đã tu bổ Trường Thành một cách qui mô để ngăn ngừa giặc tràn xuống phía Nam. Việc tu bổ này tiến hành suốt 100 năm. Trường Thành đời Minh dài 6.000 km, chạy dài từ ải quan Gia Dụ đến Áp Lục giang. Dọc theo Trường Thành, triều đình nhà Minh đặt 9 trại quân đồn trú tại Cam Túc, Cố Nguyên, Ninh Hạ, Diên Tuy, Thái Nguyên, Đại Đồng, Tuyên Phủ, Bào Châu, và Liêu Đông.

Trường Thành đời Minh chính là Vạn Lý Trường Thành mà chúng ta thấy ngày nay, thành còn khá nguyên vẹn, chỉ hư hỏng một số đoạn (khoảng 30%). Dọc theo Trường Thành có một số cửa ải để qua lại gọi là “quan” như: Sơn Hải Quan, Cư Dụng Quan, Gia Dục Quan. Tại một số địa điểm, đời Minh có bố trí nhiều binh lính đồn trú để bảo vệ gọi là “trấn” như: Kế Châu Trấn, Tuyên Phủ Trấn, Đại Đồng Trấn, Diên Tuy Trấn, Ninh Hạ Trấn, Cam Túc Trấn.

Các vật liệu được sử dụng để xây dựng trường thành là những thứ có sẵn, gần Bắc Kinh tường thành được làm bằng những khối đá vôi. Ở những nơi khác có thể là đá granite hay gạch nung. Nếu sử dụng những vật liệu đó, đầu tiên họ dựng hai bức tường sau đó nén đất và gạch đá vào giữa cùng một lớp phủ cuối cùng bên ngoài để tạo thành một khối duy nhất. Ở một số vùng các khối đó được gắn với nhau bằng một hỗn hợp nhớp dính của gạo, mật và lòng trắng trứng. Ở các vị trí vùng cực tây sa mạc, nơi vật liệu tốt rất hiếm, bức tường được làm bằng vụn gỗ thô trộn với các loại sợi.

Vạn Lý Trường Thành là một trong những công trình kiến trúc độc đáo bậc nhất về quân sự của Trung Hoa vẫn còn được lưu giữ đến ngày nay. Có thể nói đây là biểu tượng mạnh mẽ nhất của đất nước Trung Quốc và là niềm tự hào của dân tộc này với tất cả các quốc gia trên thế giới.
NHỮNG AI CÓ CÔNG TRONG SỰ RA ĐỜI CỦA TIỂU THUYẾT HỒNG LÂU MỘNG ?


Bộ tiểu thuyết Hồng Lâu Mộng là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học cổ điển Trung Quốc, và được biết đến như một tác phẩm bất hủ của nhà văn Tào Tuyết Cần. Tuy nhiên, thực tế, còn có một nhà văn khác cũng góp sức vào sự ra đời của tác phẩm đó là nhà văn Cao Ngạc.

Ban đầu, tác phẩm được nhà văn Tào Tuyết Cần đặt tên là Thạch Đầu Ký.

Nhà văn Tào Tuyết Cần vốn là con một gia đình quan lại thời quý tộc thời nhà Thanh tại Giang Ninh. Ông nội ông là Tào Dần, một nhà văn xuất sắc vùng Giang Ninh, là tác giả của bộ Luyện Đình Thi Sao và là người đứng ra in bộ Toàn Đình Thi theo lệnh vua Khang Hy. Do ganh ghét với những quyền lợi của họ Tào, các quan địa phương làm tờ trình lên triều đình vu cáo phụ thân Tào Tuyết Cần nhũng lạm tiền thuế và có âm mưu thông đồng với Thiên địa hội – một tổ chức phản Thanh phục Minh. Cha bị cách chức, bị giam cầm và bị tịch biên gia sản. Chàng công tử Tào Tuyết Cần bị đuổi đi khỏi vùng Giang Ninh, trở về sống trầm lặng và thiếu thốn trong một xóm nghèo tại ngoại ô Bắc Kinh. Bữa no, bữa đói; Tào Tuyết Cần vẫn ẩn nhẫn chịu đựng, mài mực tẩm bút viết lên tác phẩm Thạch Đầu Ký.

Thạch Đầu Ký thuộc loại tác phẩm chương hồi, là một bộ trường thiên tiểu thuyết. Tào Tuyết Cần viết được 80 chương, chữ chữ đều toàn bằng máu và nước mắt. Tác phẩm ấy có thể được xem là toàn bộ những hồi ức đau thương của công tử Tào Tuyết Cần về những ngày vẻ vang và những ngày suy tàn của gia đình mình, của giai cấp mình. Tuy nhiên, vượt lên khỏi những hồi ức đó, Thạch Đầu Ký là tác phẩm của nhà văn Tào Tuyết Cần với cái nhìn cực kỳ khách quan về bản chất ăn chơi, hưởng thụ của giai cấp quan lại quý tộc, đặc biệt là quan lại quý tộc triều Thanh và sự suy tàn của giai cấp ấy. Nói cách khác, khi xây dựng tác phẩm chương hồi nầy, Tào Tuyết Cần vừa đứng trên vị thế chủ quan của một người trong cuộc, vừa đứng ở vị thế khách quan của một chứng nhân.

Mới viết dang dở được 80 chương, Tào Tuyết Cần qua đời. Những nhà nho đương đại đã được đọc 80 chương bản thảo của ông đều cảm thương cho một nhà văn lìa đời ở cái tuổi còn quá trẻ và đều có tham vọng kế tục sự nghiệp dang dở của ông. Tuy nhiên, họ không có được cái kinh nghiệm đau khổ của Tào Tuyết Cần. Phải đợi đến năm 1971, mới có một nhà văn quyết định kế tục và hoàn thành tâm nguyện cho Tào Tuyết Cần. Người đó là Cao Ngạc.

Cao Ngạc tự là Vận Sĩ, hiệu là Hồng Lâu Ngoại Sĩ, từng làm quan dưới 2 triều Kiền Long và Gia Khánh, trải qua lắm hoạn nạn trên hoạn lộ. Ông đã viết thêm 40 chương sau cho Thạch Đầu Ký căn cứ trên nền tảng, ý hướng và văn phong của Tào Tuyết Cần. Tác phẩm hoàn thành, Cao Ngạc đổi tựa lại là Hồng Lâu Mộng (Giấc Mơ Lầu Hồng), vừa phù hợp với nội dung tác phẩm, vừa mang dáng dấp của tâm hồn ông vì hiệu của ông là Hồng Lâu Ngoại Sĩ (người ngoài lầu hồng – không dính dáng gì đến công danh phú quý). Năm 1793, Hồng Lâu Mộng được in ra gồm 120 chương hồi, thực sự trở thành danh tác văn học cổ điển Trung Quốc, nhanh chóng được nhìn nhận như là một trong những tác phẩm xuất sắc trong hơn 300 tác phẩm chương hồi thuộc hai triều Minh – Thanh (1368 – 1911).

Như vậy, Cao Ngạc là người đã có công lớn trong việc làm sống lại và hoàn thiện tác phẩm, đồng thời mang lại cho tác phẩm một tiêu đề rất giàu hàm ý như chúng ta biết: Hồng Lâu Mộng.
(St)
 

Bình luận bằng Facebook

Top