Tìm hiểu dấu vết văn học trung đại qua một trích đoạn Truyện Kiều (P2)

cohonnhien

Thành viên
#1
Một đặc trưng khác của văn học trung đại là tính cao nhã. Nói cao nhã là nói đến sự cao quý, thanh nhã, biểu lộ ở quan niệm về văn chương, về công việc sáng tác, cả về người sáng tác... Người xưa quan niệm, văn chương là tinh khí của đất trời. Văn nhân là kẻ được trời ban cho tinh khí, nên cái tinh khí ấy đòi hỏi được vung bút thành “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Người cầm bút, một khi lựa chọn việc viết cái gì, viết thế nào, viết để làm gì... đều là hành động tự ý thức, làm tăng sự cao nhã của bản thân mình. Nguyễn Du cũng thế! Dẫu rằng đánh tiếng “lời quê chắp nhặt dông dài”, nhưng thực tình, ngòi bút nhà thơ lại vô cùng cao nhã. Điều đó thể hiện ngay cả trong cảnh tượng thô thiển nhất: cảnh ăn chơi ở lầu xanh. Đây là đề tài nhờn gớm đối với các vị hủ nho, cả khi bút chưa chấm vào nghiên mực. Nói thế mới thấy bản lĩnh lớn, cái tâm lớn của nhà thơ. Chỉ vài nét bút, cảnh đã hiện lên, thần tình, sống động, nhất là giữ được cao nhã. Nhắc đến khách làng chơi, nhà thơ mượn con ong, cánh bướm. Khi cần tả cốt cách, vóc mạo của chúng, tiên sinh mượn hình ảnh Tống Ngọc, Tràng Khanh, những tay ăn chơi đẹp trai, trăng hoa của thời Sở, Hán. Tả chuyện khách chơi sỗ sàng lựa chọn, nhà thơ nhờ điển tích “lá gió cành chim”. Hay chuyện quay cuồng hoan lạc, nhà thơ trở về cảnh cũ: “mưa Sở, mây Tần”. Tỏ ra cao nhã như thế, không phải nhà thơ muốn thêu hoa dệt gấm cho chốn ăn chơi, nhằm đề cao, cổ xúy. Trái lại, như đã nói, đó là dấu hiệu một bản lĩnh lớn. Tả đúng cảnh nhờn gớm, đáng khinh mà không hề nhầy nhụa, trơ trẽn. Người đọc, đến đoạn này, không phải đỏ mặt, hổ thẹn vì trót chứng kiến cảnh bùn nhơ. Mặt khác, đó cũng là biểu hiện của một cái tâm lớn. Nhà thơ không muốn bóc trần cái địa ngục đầy ung nhọt, nơi người con gái mà mình thương cảm nhất, đang bị lưu đày. Bởi, làm sao có thể để Kiều dính lây cái bọc vỡ tanh tưởi ấy, một khi nó bị phanh phui bằng ngòi bút lạnh lùng của mình?



Cảnh ăn chơi trác táng còn giữ được vẻ cao nhã như vậy, những cảnh tượng khác càng thanh thoát nhiều hơn. Nhắc thời con gái êm đềm, trinh trắng của Kiều, nhà thơ nhắc cảnh “phong gấm rủ là”. Thực tế, một gia đình “thường thường bậc trung” đâu đủ giàu sang đến độ dùng “gấm”, dùng “là”, mà phong kín khuê phòng con gái. Nhưng phải ước lệ, tượng trưng như thế mới gây hiệu quả, mới làm bật được danh giá, phẩm hạnh cao quý vô vàn của chị em Kiều.



Hay, tả cảnh Kiều tiếp khách làng chơi nho nhã, Nguyễn Du chỉ phác họa vài chi tiết: “nét vẽ, câu thơ, cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa”. Cuộc chơi toàn thú vui thanh lịch của tao nhân mặc khách: cầm, kỳ, thi, họa. Không có kẻ “ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ” nhưng cũng nào có tri âm, tri kỷ mặn mà. Cuộc vui đúng là tao nhã, nhưng tình vẫn gờn gợn đâu đó dư vị làng chơi:



“Đòi phen nét vẽ câu thơ

Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa.

Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó mặn mà với ai”



Hình ảnh “nguyệt, hoa” thật đẹp và thơ mộng. Nhưng để gần “nguyệt” với “hoa” thì bỗng thành “trăng hoa”, sao vẫn gợi nhắc thói trăng hoa? Kiều bao lần vẩy bút vẽ tranh, làm thơ, nâng phím gảy đàn, đánh cờ,... vậy mà vui chỉ là “vui gượng”. Kẻ trong cuộc với nàng chẳng phải “tri âm”, cũng không chút “mặn mà”. Những cuộc chơi ấy, nếu không do áp lực, cũng là kiểu trá hình của chuyện thuận bán vừa mua. Tả cảnh làng chơi mà thật cao nhã, dùng chi tiết cao nhã nhưng vẫn lộ dư vị làng chơi, Nguyễn Du quả xứng danh một bậc thầy ngôn ngữ.



Cũng theo hướng này, nhà thơ tả cảnh vui, đẹp bằng chi tiết “gió trúc mưa mai”. Trúc gặp gió, hoa mai gặp mưa, cảnh vi vu, tươi tốt thế, đúng là buổi hội ngộ của mặc khách tao nhân. Có điều, đây chỉ là “vui gượng kẻo là”. Bởi thế, trách làm sao Kiều không khỏi “thờ ơ”.



*

Một nét đặc trưng nữa của văn học trung đại chính là tính vô ngã. Xã hội trung đại là xã hội của chữ “lễ”, của ký hiệu. Trong xã hội, con người phải dẹp bỏ cá tính, tâm tình riêng của mình, để giữ được “lễ”. Đó là kiểu con người vô ngã, sống với tư cách công dân, theo cảm thức nho giáo về một xã hội ổn định, bất biến, sùng cổ, tuân theo thứ bậc, đẳng cấp. Con người vô ngã, vào tác phẩm văn học, là kiểu người chỉ có hành động mà không biểu hiện tâm lý. Trái lại, mang tính cách nổi loạn, phá vỡ là con người hữu ngã. Đây là con người đã nghiêng về phần ý thức cá nhân mình, có khả năng tự soi rọi thế giới nội tâm của mình, thấy mình không giống người khác.



Soi vào đoạn thơ, ta không thấy con người vô ngã đâu hết. Chỉ thấy trọn vẹn con người hữu ngã, một Thúy Kiều đang tự ý thức về cá nhân, đang độc thoại với chính mình. Sao có thể ngờ, người con gái đức hạnh, hiếu thảo với mẹ cha, tự nguyện “gìn vàng giữ ngọc” lại phải dãi dầu, dấn bước vào chốn lầu xanh. Sa vào chốn này, Kiều bị ép phải lả lơi, dập dìu đưa đón, rồi say, rồi cười. Mọi thứ không còn khuôn phép gì nữa. Hành động của Kiều phản chiếu sự ngả nghiêng, xộc xệch của xã hội đương thời. Làm sao có được một xã hội ổn định, bất biến, khi vẫn còn đó những chốn lầu xanh và những số phận long đong, chìm nổi như Kiều?



Diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật đã được Nguyễn Du phân tích tinh tế, thấm thía. Con người vô ngã làm sao có được trạng thái cảm xúc kỳ lạ thế này:



“Giật mình, mình lại thương mình xót xa”



Những tưởng, Kiều đã chìm đắm trong cơn say, ngủ vùi trong mê muội, hay lạnh lùng, bất chấp cuộc đời. Thế nhưng, đáng quý biết bao, Kiều đã biết giật mình. Đó là phần ý thức về phẩm giá trỗi dậy, Kiều tự phán xét sự sa ngã của mình. Những phẩm hạnh tốt đẹp khiến nàng bàng hoàng nhìn lại cuộc sống hiện tại. Quay cuồng xung quanh mình, biết bao công tử, khách chơi thanh lịch. Nào câu thề ước, lời âu yếm, giọng ngọt ngào,... hóa ra, tất cả chỉ là giả dối. Giờ đây, khi mình cần có một tri âm, thì chỉ còn có mình ôm lấy vết đau của chính mình. Cuối cùng, chỉ mình thương lấy thân mình mà thôi! Ba chữ “mình”, nhưng gom lại, chỉ là một nỗi cô đơn khủng khiếp. Nhìn ra cảnh vật, Kiều thấy được thế giới nội tâm của mình. Vừa vơi tủi nhục, nàng đã rơi vào cô đơn, rũ buồn. Niềm vui cũng có, nhưng chỉ “vui là vui gượng kẻo là”. Thành ra, tiếp khách mà cứ “thờ ơ”, nhìn đâu cũng thấy “ngẩn ngơ”, để rồi đau khổ và tủi hổ tột cùng:



“Ôm lòng đòi đoạn xa gần

Chẳng vò mà rối, chẳng dần mà đau”



Không chỉ tách khỏi nghĩa vụ, bổn phận với cộng đồng, theo chữ “lễ”, con người hữu ngã còn tồn tại như một khối cô đơn. Cô đơn đến độ chỉ biết “ôm lòng”. Đau đến đứt ruột. Tâm trạng ngổn ngang, rối bời như tơ. Cả thể xác lẫn tinh thần như đang chịu bao vết thương nhức buốt. Tự mình khổ, tự mình đau, bởi tự mình dày vò, trừng phạt chính mình. Kiều thực sự là con người hữu ngã trong văn học trung đại, hiện diện với tất cả chiều sâu nội tâm và những trạng thái tâm lý phức tạp. Miêu tả con người cô đơn của Kiều, Nguyễn Du đã mang đến cho văn học trung đại một hướng khám phá hiện thực mới mẻ, thông qua những thân phận cụ thể của con người hữu ngã. Chế độ phong kiến hà khắc không chỉ buộc con người thủ tiêu ý thức cá nhân mà còn khiến họ phải sống trong nỗi dày vò, đau đớn về tâm hồn. Càng có ý thức cá nhân, càng coi trọng phẩm hạnh, con người càng rơi vào bi kịch tinh thần, mà chính mình là người phán xét.



*

Văn học trung đại còn một đặc trưng khác, đó là quy phạm và bất quy phạm. Nó xoay quanh vấn đề khuôn phép. Tính quy phạm, thực ra, là hệ quả, là tổng hợp của cảm thức thẩm mỹ, sự cao nhã và tính vô ngã. Trong văn học thời này, mọi cách chọn đề tài, thể loại, hình tượng nghệ thuật, kết cấu, tính hàm súc của ngôn ngữ... đều phải tuân theo những “quy”, những “phạm”. Từ đó, những gì ngược với quy phạm đều bị xem là bất quy phạm.



Trong đoạn thơ này, tính quy phạm thể hiện không ít. Đó là thể thơ lục bát, với tính đăng đối chặt chẽ về ý tưởng lẫn thi luật. “Cuộc vui đầy tháng” đối với “trận cười suốt đêm”. Hễ có Tống Ngọc phải có Tràng Khanh. Đã có “sớm đưa” thì phải “tối tìm”. Bằng đối trắc, thời gian với thời gian, nhân vật cùng nhân vật... Chúng tạo cho đoạn thơ âm điệu nhịp nhàng, du dương, uyển chuyển. Về thi liệu, khi đề cập những thú vui tao nhã của khách làng chơi, đoạn thơ cũng theo quy phạm: cầm – kỳ – thi – họa. Ngay như cảnh lầu xanh ô hợp, đoạn thơ cũng cố gắng giữ một chừng mực, theo lề lối, định thức: chuyện bướm - ong, lá - cành, gió - chim, trăng – hoa, mưa Sở – mây Tần... Chúng là những hình ảnh, đã thành “quy phạm”, nói về chuyện trai gái lả lơi, về chốn buôn hương bán phấn.



Về mặt ngôn từ, tính quy phạm thể hiện qua việc sử dụng cách diễn đạt hàm súc. Văn học trung đại quan niệm “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”. Nó cũng là tiêu chuẩn phân biệt văn thơ đích thực với kiểu nôm na mách qué. Ở đoạn trích này, những hình ảnh vừa nêu cũng không nằm ngoài nhu cầu diễn tả, một cách cô đọng nhất, cuộc sống náo nhiệt, giả dối và tình cảnh bi đát của Kiều ở chốn lầu xanh.



Tuy nhiên, đoạn thơ, phần nhiều, lại rơi vào bất quy phạm. Như đã nói, văn chương là tinh khí của đất trời, chỉ chuộng những đề tài cao nhã, theo lối mòn có sẵn. Hết Phong - Hoa - Tuyết - Nguyệt đến Mai – Lan – Cúc – Trúc, lại Ngư - Tiều - Canh – Mục,... Chuyện thế sự thì quẩn quanh Trung – Hiếu – Tiết – Nghĩa, Trung thần – Liệt nữ... Vậy mà, thật động trời, Nguyễn Du lại miêu tả một gái làng chơi. Mà đây đâu phải hạng gái tầm thường, một mẫu mực cho nhân, nghĩa, tiết, hạnh... Người con gái ấy cũng ngả nghiêng, cười cợt, lả lơi, say túy lúy... Có lúc, nàng còn đem cả phẩm giá, tiết hạnh mà tự soi rọi, phán xét chính mình. Nàng đã làm được những điều mà các nhân vật phụ nữ, trong văn học trung đại, chưa mấy ai làm được. Đã vậy, nàng còn sống ngay trong cảnh làng chơi. Không chuyện gì của chốn ăn chơi trác táng không được đề cập, kiểu “vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề”. Ngay như, chuyện cầm – kỳ – thi - họa vốn chỉ dành cho bậc vương hầu, nho sĩ thưởng lãm, nhà thơ cũng lôi cả vào chốn ăn chơi, cho Kiều phục vụ khách tìm hoa. Những chi tiết bất quy phạm này khác nào cái chồi cây đại thụ, đã bắt rễ, đâm tược, ngay kẽ nứt sụp của bức tường thành phong kiến mục ruỗng. Thành ra, ai đó, thay vì dựa hơi các vị hủ nho, lên án Nguyễn Du, cần thấy được và ngợi ca sức sống mãnh liệt của tư tưởng và tài năng nhà thơ mới phải.



Xét về phương diện chữ viết, thời bấy giờ, thơ ca, muốn được xếp hàng quý phái, phải nhất nhất tuân theo chữ Hán. Vậy mà, Truyện Kiều nói chung, đoạn thơ nói riêng, lại dùng thứ chữ Nôm, trong đó, đậm đặc lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Giả như dùng chữ Hán, nhà thơ làm sao có được những dòng thơ xuất thần, có sức ám ảnh lớn thế này:



“Giật mình, mình lại thương mình xót xa”



So với chữ “ngã” đầy cao đạo, đại từ “mình” dân dã, mộc mạc hơn, nhưng biến hóa lạ kỳ. Nó có thể phân cực tâm trạng con người: phần ảo mộng, phần hồi tỉnh, phần xót xa. Ba mình nhưng thật ra là một. Ba “mình”, nhưng chỉ là một nỗi cô đơn khủng khiếp.



Hay như cách nói nghiêng về khẩu ngữ:

“Vui là vui gượng kẻo là

Ai tri âm đó, mặn mà với ai”



Những điệp từ “vui, là”, cùng cách nói bỏ lửng “kẻo là”, đã tạo được ấn tượng lặp lại chán ngắt, một tình cảnh gượng ép, ngay giữa cuộc vui. Từ ngữ “ai, vớí ai”, đầy bóng gió xa xôi, đã gây nên cảm giác dằn vặt, nặng nề, hụt hẫng, của nàng Kiều, trước tình người ồn ào, giả dối. Cũng thế, điệp từ “sao” cất lên, nghe như có mũi dao, từng nhát, từng nhát, nhói sâu vào cơ thể: “khi sao, giờ sao, mặt sao, thân sao”. Mọi thứ đều là của mình, quá khứ, hiện tại, gương mặt, tấm thân,... Vậy mà, mình không hiểu nổi chính mình. Đến khi hiểu ra, mình lại càng thêm chán ngán, ghê tởm chính mình.



Ngay như các cách nói, từ ngữ quen thuộc, đã sóng đôi thành cặp, bỗng bị nhà thơ giằng xé ra: “bướm ong, lả lơi, chán chường, lá cành, gió chim, gió sương, dày dạn...”. Chúng đột nhiên được kết hợp lại, tạo thành những tổ hợp mới, gây nên những ý tưởng lạ, những chấn động không ngờ: “bướm lả ong lơi, bướm chán ong chường, lá gió cành chim, dày gió dạn sương...”. Chuyện ong bướm lả lơi thành “bướm lả ong lơi” quả là sự buông thả, ngả ngớn, người mua kẻ bán xô cả vào nhau, quấn riết lấy nhau, xô bồ, vồ vập. Ong bướm chán chường thành ra “bướm chán ong chường”, nó chuyển từ tình trạng “ong bướm” chán nhau thành ra một nỗi nhục nhã của chính Thúy Kiều: tấm thân nghìn vàng của mình đã bị bọn “ong bướm” chán chường, khinh rẻ. Còn nỗi bẽ bàng, tê tái nào hơn, khi chính mình nhận ra thân phận rẻ rúng của mình, dưới mắt bọn người đê hạ. Hay như tổ hợp từ “dày gió dạn sương” đã khiến gương mặt Kiều thêm phần chai sạn hơn, trơ trẽn hơn, đã thành mặt dày mày dạn. Cách diễn đạt sáo mòn bỗng mang sinh khí mới, lột tả được tình cảnh dầu dãi, ê chề của Kiều trong kiếp đời sương gió.



Những chi tiết thành công này đều là hiệu quả có được của tính bất quy phạm. Bằng tài năng lớn, Nguyễn Du dám vượt khỏi dấu mòn xe cũ, mở một con đường mới trên đồng cỏ mênh mông. Người đọc cùng theo lối đi của nhà thơ, không chỉ hiểu những gì tác phẩm chứa đựng mà còn nhận ra cả một không gian rộng mở, mới mẻ của văn học trung đại: khả năng sáng tạo, từ việc phá vỡ tính quy phạm thâm căn cố đế suốt nghìn năm.



*

Chắc rằng, còn nhiều điều sâu sắc, phong phú hơn, về trích đoạn “Truyện Kiều” vừa được khảo sát. Những gì tiểu luận trình bày chỉ mới là bước chân theo dấu các bậc thầy đáng kính, những người đã dành tâm huyết cả một đời để nghiên cứu di sản văn học dân tộc. Có lẽ dư vị ngọt ngào nhất, đọng lại trong tiểu luận này, chính là những cảm thụ và thấu hiểu của người viết về một trong những đoạn thơ tài hoa nhất, cảm động nhất của “Truyện Kiều”. Thấy được dấu vết văn học trung đại trong đoạn trích này, chúng ta càng thêm kính trọng một tài năng lớn, một tấm lòng yêu thương mênh mông của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.



Mỹ Tho, tháng 07 năm 2002


Võ Phúc Châu
 

Bình luận bằng Facebook

Top